Tại kỳ họp thứ 7, Khóa XIV Quốc hội đã bỏ phiếu thông qua 7 dự
án Luật và 03 Nghị quyết có liên quan đến một số lĩnh vực trong đời sống xã hội
như:
1. Luật Quản lý thuế 2019
Luật Quản lý thuế quy định việc quản lý các loại thuế, các khoản
thu khác thuộc ngân sách nhà nước. Luật xác định người nộp thuế bao gồm: Tổ
chức, hộ gia đình, hộ kinh doanh, cá nhân nộp thuế theo quy định của pháp luật
về thuế; Tổ chức, hộ gia đình, hộ kinh doanh, cá nhân nộp các khoản thu khác
thuộc ngân sách nhà nước; Tổ chức, cá nhân khấu trừ thuế.
Cơ quan quản lý thuế bao gồm: Cơ quan thuế bao gồm Tổng
cục thuế, Cục thuế, Chi cục thuế, Chi cục thuế khu vực; Cơ quan hải quan bao
gồm Tổng cục hải quan, Cục hải quan, Cục kiểm tra sau thông quan, Chi cục hải
quan; Công chức quản lý thuế bao gồm công chức thuế, công chức hải quan; Cơ
quan nhà nước, tổ chức, cá nhân khác có liên quan.
Những hành vi bị nghiêm cấm trong quản lý thuế: Thông đồng, móc
nối, bao che giữa người nộp thuế và công chức, cơ quan quản lý thuế để chuyển
giá, trốn thuế; Gây phiền hà, sách nhiễu đối với người nộp thu; Lợi dụng để
chiếm đoạt hoặc sử dụng trái phép tiền thuế; Cố tình không kê khai hoặc kê khai
thuế không đầy đủ, kịp thời, chính xác về số tiền thuế phải nộp; Cản trở công
chức quản lý thuế thi hành công vụ. Sử dụng mã số thuế của người nộp thuế khác
để thực hiện hành vi vi phạm pháp luật hoặc cho người khác sử dụng mã số thuế
của mình không đúng quy định của pháp luật. Bán hàng, cung cấp dịch vụ không
xuất hóa đơn theo quy định của pháp luật, sử dụng hóa đơn không hợp pháp và sử
dụng không hợp pháp hóa đơn. Làm sai lệch, sử dụng sai mục đích, truy cập trái
phép, phá hủy hệ thống thông tin về người nộp thuế.
Đặc biệt trong Luật Quản lý thuế lần này có quy định nhằm đẩy
mạnh hiện đại hóa công tác quản lý thuế theo hướng công tác quản lý thuế được
hiện đại hóa về phương pháp quản lý, thủ tục hành chính, bộ máy tổ chức, đội
ngũ công chức, viên chức, áp dụng rộng rãi công nghệ tin học, kỹ thuật hiện đại
trên cơ sở dữ liệu thông tin chính xác về người nộp thuế để kiểm soát được tất
cả đối tượng chịu thuế, căn cứ tính thuế; bảo đảm dự báo nhanh, chính xác số
thu của ngân sách nhà nước; phát hiện và xử lý kịp thời các vướng mắc, vi phạm pháp
luật về thuế.
Nhà nước tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân tham gia phát
triển công nghệ và phương tiện kỹ thuật tiên tiến để áp dụng phương pháp quản
lý thuế hiện đại, thực hiện giao dịch điện tử và quản lý thuế điện tử; đẩy mạnh
phát triển các dịch vụ thanh toán thông qua hệ thống ngân hàng thương mại, tổ
chức tín dụng khác để từng bước hạn chế các giao dịch thanh toán bằng tiền mặt
của người nộp thuế.
Cơ quan quản lý thuế xây dựng hệ thống công nghệ thông tin đáp
ứng yêu cầu hiện đại hóa công tác quản lý thuế, quy định tiêu chuẩn kỹ thuật,
định dạng dữ liệu về hóa đơn, hồ sơ thuế để thực hiện giao dịch điện tử giữa
người nộp thuế với cơ quan quản lý thuế và giữa cơ quan quản lý thuế với các cơ
quan, tổ chức, cá nhân có liên quan.
Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2020. Đối
với quy định về hóa đơn, chứng từ điện tử của Luật này có hiệu lực từ ngày 01
tháng 7 năm 2022. Luật cũng quy định về việc khuyến khích cơ quan, tổ chức, cá
nhân áp dụng quy định về hóa đơn, chứng từ điện tử của Luật này trước ngày 01
tháng 7 năm 2022.
Đối với các khoản thuế được miễn, giảm,
không thu, xóa nợ thuế phát sinh trước ngày 01 tháng 7 năm 2020 thì tiếp tục xử
lý theo quy định của Luật Quản lý thuế số 78/2006/QH11 đã được sửa đổi, bổ sung một số
điều theo Luật số 21/2012/QH13, Luật số 71/2014/QH13 và Luật số 106/2016/QH13.
2. Luật Đầu tư
công(sửa đổi)
quy định việc quản lý nhà nước về đầu tư công; quản lý và sử dụng vốn đầu tư
công; quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của cơ quan, đơn vị, tổ chức, cá nhân liên
quan đến hoạt động đầu tư công. Luật được áp dụng đối với cơ quan, đơn vị, tổ
chức, cá nhân tham gia hoặc có liên quan đến hoạt động đầu tư công, quản lý và
sử dụng vốn đầu tư công.
Về nguyên tắc quản lý đầu tư công, Luật quy định: Tuân thủ các
quy định của pháp luật về quản lý và sử dụng vốn đầu tư công; Phù hợp với chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 05 năm
của đất nước và quy hoạch có liên quan theo quy định của pháp luật về quy
hoạch; Thực hiện đúng trách nhiệm và quyền hạn của cơ quan quản lý nhà nước, tổ
chức, cá nhân liên quan đến quản lý và sử dụng vốn đầu tư công; Quản lý
việc sử dụng vốn đầu tư công theo đúng quy định đối với từng nguồn vốn; bảo đảm
đầu tư tập trung, đồng bộ, chất lượng, tiết kiệm, hiệu quả và khả năng cân đối
nguồn lực; không để thất thoát, lãng phí; Bảo đảm công khai, minh bạch trong
hoạt động đầu tư công.
Luật quy định dự án quan trọng quốc gia là dự án đầu tư độc lập
hoặc cụm công trình liên kết chặt chẽ với nhau thuộc một trong các tiêu chí: Sử
dụng vốn đầu tư công từ 10.000 tỷ đồng trở lên; Ảnh hưởng lớn đến môi trường
hoặc tiềm ẩn khả năng ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường, bao gồm: Nhà máy
điện hạt nhân; Sử dụng đất có yêu cầu chuyển mục đích sử dụng đất vườn quốc
gia, khu bảo tồn thiên nhiên, khu bảo vệ cảnh quan, khu rừng nghiên cứu, thực
nghiệm khoa học từ 50 héc ta trở lên; rừng phòng hộ đầu nguồn từ 50 héc ta trở
lên; rừng phòng hộ chắn gió, chắn cát bay, chắn sóng, lấn biển, bảo vệ môi
trường từ 500 héc ta trở lên; rừng sản xuất từ 1.000 héc ta trở lên; Sử dụng
đất có yêu cầu chuyển mục đích sử dụng đất trồng lúa nước từ hai vụ trở
lên với quy mô từ 500 héc ta trở lên; Di dân tái định cư từ 20.000 người trở
lên ở miền núi, từ 50.000 người trở lên ở các vùng khác; Dự án đòi hỏi phải áp
dụng cơ chế, chính sách đặc biệt cần được Quốc hội quyết định.
Về trình tự, thủ tục quyết định chủ trương đầu tư chương trình
đầu tư công thuộc thẩm quyền của Chính phủ, Luật quy định rõ: Giao đơn vị trực
thuộc lập Báo cáo đề xuất chủ trương đầu tư; đơn vị có chức năng thẩm định hoặc
thành lập Hội đồng để thẩm định Báo cáo đề xuất chủ trương đầu tư; Hoàn thiện
Báo cáo đề xuất chủ trương đầu tư trình Thủ tướng Chính phủ. Thủ tướng Chính
phủ thành lập Hội đồng liên ngành hoặc giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối
hợp với các cơ quan có liên quan thẩm định Báo cáo đề xuất chủ trương đầu tư.
Chủ chương trình hoàn chỉnh Báo cáo đề xuất chủ trương đầu tư theo ý kiến thẩm
định quy định tại khoản 2 Điều này trình Chính phủ. Chính phủ xem xét, quyết
định chủ trương đầu tư chương trình, bao gồm mục tiêu, phạm vi, quy mô, tổng
vốn đầu tư, thời gian, tiến độ, cơ chế và giải pháp, chính sách thực hiện.
Về quy định chuyển tiếp, Luật Đầu tư công (sửa đổi) quy định:
Chương trình, dự án đã được bố trí vốn trong kế hoạch đầu tư được cấp có thẩm
quyền quyết định đầu tư trước ngày Luật Đầu tư công số 49/2014/QH13 có hiệu lực thì phải thực hiện điều chỉnh
quyết định đầu tư chương trình, dự án theo quy định của Luật này; Chương trình,
dự án đã được quyết định chủ trương đầu tư, quyết định đầu tư theo quy định của
Luật Đầu tư công số 49/2014/QH13 mà chưa có trong kế hoạch đầu tư được cấp có
thẩm quyền quyết định thì phải thực hiện điều chỉnh quyết định chủ trương đầu
tư, quyết định đầu tư chương trình, dự án theo quy định của Luật này; Chương
trình, dự án đang trình cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định thì tiếp tục thực
hiện việc lập, thẩm định, quyết định chủ trương đầu tư, quyết định đầu tư theo
quy định của Luật Đầu tư công số 49/2014/QH13 và các văn bản quy định chi tiết,
hướng dẫn thi hành; Chỉ bố trí vốn kế hoạch đầu tư công để thanh toán nợ đọng
xây dựng cơ bản phát sinh trước ngày 31 tháng 12 năm 2014; Đối với kế hoạch vốn
đầu tư công năm 2020, các Bộ, cơ quan trung ương, địa phương được phép thực
hiện và giải ngân đến hết 31 tháng 12 năm 2021.
Luật Đầu tư công (sửa đổi) có hiệu lực thi hành từ ngày
01/01/2020. Luật Đầu tư công số 49/2014/QH13 hết hiệu lực kể từ ngày Luật này
có hiệu lực thi hành./.
3. Luật Kiến trúc gồm 5 chương 41 điều, quy định về quản
lý kiến trúc, hành nghề kiến trúc; quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của cơ quan,
tổ chức, cá nhân trong hoạt động kiến trúc. Luật áp dụng đối với cơ quan, tổ
chức, cá nhân trong hoạt động kiến trúc và cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có
liên quan đến hoạt động kiến trúc trên lãnh thổ Việt Nam.
Luật xác định ngày 27 tháng 4 hằng năm
là ngày Kiến trúc Việt Nam.
Về bản sắc văn hóa dân tộc trong kiến
trúc, Luật quy định bản sắc văn hóa dân tộc trong kiến trúc bao gồm đặc điểm,
tính chất tiêu biểu, dấu ấn đặc trưng về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội,
văn hóa, nghệ thuật; thuần phong mỹ tục các dân tộc; kỹ thuật xây dựng và vật
liệu xây dựng, được thể hiện trong các công trình kiến trúc, tạo nên một phong
cách riêng của kiến trúc Việt Nam.
Căn cứ đặc điểm, tính chất tiêu biểu về
văn hóa dân tộc của địa phương, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm tổ
chức nghiên cứu, khảo sát, đánh giá và quy định nội dung yêu cầu về bản sắc
văn hóa dân tộc trong quy chế quản lý kiến trúc phù hợp với địa bàn quản lý.
Cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm bảo vệ, giữ gìn và phát huy giá trị
bản sắc văn hóa dân tộc trong kiến trúc.v
Về hành nghề kiến trúc, Luật phân định
rõ việc hành nghề kiến trúc của cá nhân và hành nghề kiến trúc của tổ chức.
Theo đó, kiến trúc sư hành nghề với tư cách cá nhân là kiến trúc sư có chứng
chỉ hành nghề kiến trúc không thuộc tổ chức hành nghề kiến trúc, nhân danh cá
nhân mình thực hiện các dịch vụ kiến trúc. Kiến trúc sư hành nghề với tư cách
cá nhân thực hiện dịch vụ kiến trúc theo nội dung hợp đồng đã giao kết với tổ
chức, cá nhân theo quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên
quan.
Tổ chức xã hội - nghề nghiệp về hành
nghề kiến trúc, cơ sở nghiên cứu, cơ sở đào tạo về kiến trúc tổ chức thực hiện
sát hạch cấp chứng chỉ hành nghề kiến trúc.
Người nước ngoài được hành nghề kiến
trúc tại Việt Nam khi có chứng chỉ hành nghề kiến trúc tại Việt Nam hoặc có
chứng chỉ hành nghề kiến trúc đang có hiệu lực do cơ quan, tổ chức có thẩm
quyền của nước ngoài cấp và được Việt Nam công nhận, chuyển đổi và tuân thủ
pháp luật Việt Nam và Quy tắc ứng xử nghề nghiệp của kiến trúc sư hành nghề của
Việt Nam.
Tổ chức hành nghề kiến trúc bao gồm văn
phòng kiến trúc sư, tổ chức sự nghiệp, doanh nghiệp khác được tổ chức, hoạt
động theo quy định của Luật này, Luật Doanh nghiệp và quy định khác của pháp luật có liên quan.v
Luật xác định rõ nội dung quản lý nhà
nước về kiến trúc gồm ban hành, trình cơ quan có thẩm quyền ban hành và tổ chức
thực hiện văn bản quy phạm pháp luật về kiến trúc; Xây dựng, tổ chức thực hiện
định hướng phát triển kiến trúc Việt Nam, chiến lược, chương trình, đề án, kế
hoạch trong hoạt động kiến trúc; Tổ chức, thống nhất quản lý kiến trúc đô thị
và nông thôn; quản lý hành nghề kiến trúc; Cấp, gia hạn, thu hồi, cấp lại chứng
chỉ hành nghề kiến trúc; quản lý thông tin, lưu trữ tài liệu trong hoạt động kiến
trúc; Xây dựng và ban hành tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về kiến trúc; Tổ
chức, quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học; đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ
hoạt động kiến trúc; Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về kiến
trúc; Hợp tác quốc tế về kiến trúc; Xây dựng, quản lý lưu trữ hồ sơ, cơ
sở dữ liệu, cung cấp thông tin phục vụ quản lý kiến trúc; Thanh tra, kiểm tra,
giải quyết khiếu nại, tố cáo, khen thưởng và xử lý vi phạm trong hoạt động kiến
trúc.
Bên cạnh đó, Luật cũng quy định cụ thể
trách nhiệm của Chính phủ, Bộ, cơ quan ngang Bộ, trách nhiệm của Ủy ban nhân
dân các cấp trong quản lý kiến trúc. Sau khi được Quốc hội thông qua, Luật Kiến
trúc sẽ chính thức có hiệu lực từ ngày 01 tháng 7 năm 2020.
4. Luật Thi hành án hình sự (sửa đổi) quy định nguyên tắc, trình
tự, thủ tục, tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, người có thẩm quyền
trong thi hành bản án; quyết định về hình phạt tù, tử hình, cảnh cáo, cải tạo
không giam giữ, cấm cư trú, quản chế, trục xuất, tước một số quyền công dân,
cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định, án treo, tha
tù trước thời hạn có điều kiện, hình phạt đình chỉ hoạt động có thời hạn, đình
chỉ hoạt động vĩnh viễn, cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực
nhất định, cấm huy động vốn, biện pháp tư pháp; quyền, nghĩa vụ của người, pháp
nhân thương mại chấp hành án hình sự, biện pháp tư pháp; trách nhiệm của cơ
quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong thi hành án hình sự, biện pháp tư
pháp.
Luật quy định nguyên tắc thi hành án
hình sự gồm: Tuân thủ Hiến pháp, pháp luật, bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền
và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Bản án, quyết định của Tòa
án có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ
quan, tổ chức, cá nhân có liên quan phải nghiêm chỉnh chấp hành; bảo đảm nhân
đạo xã hội chủ nghĩa; tôn trọng danh dự, nhân phẩm, quyền, lợi ích hợp pháp của
người chấp hành án, người chấp hành biện pháp tư pháp, quyền, lợi ích hợp pháp
của pháp nhân thương mại chấp hành án. Kết hợp trừng trị và giáo dục cải tạo
trong việc thi hành án; áp dụng biện pháp giáo dục cải tạo phải trên cơ sở tính
chất, mức độ phạm tội, độ tuổi, giới tính, trình độ học vấn và các đặc điểm
nhân thân khác của người chấp hành án.
Thi hành án đối với người dưới 18 tuổi
chủ yếu nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở
thành người có ích cho xã hội. Khuyến khích người chấp hành án ăn năn hối cải,
tích cực học tập, lao động cải tạo, tự nguyện bồi thường thiệt hại. Bảo đảm
quyền khiếu nại, tố cáo hành vi, quyết định trái pháp luật của cơ quan, người
có thẩm quyền trong thi hành án hình sự…
Các hành vi bị nghiêm cấm trong thi hành
án hình sự theo quy định của luật gồm: Phá hủy cơ sở quản lý, giam giữ; hủy
hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của cơ sở quản lý, giam giữ; tổ chức trốn
hoặc trốn khỏi nơi quản lý, giam giữ; tổ chức trốn hoặc trốn khi đang bị áp
giải, dẫn giải; đánh tháo phạm nhân, người chấp hành biện pháp tư pháp, người
bị áp giải, dẫn giải. Không chấp hành quyết định thi hành án hình sự; cản trở
hoặc chống lại việc thực hiện nội quy, quy chế về thi hành án hình sự hoặc
quyết định, yêu cầu của cơ quan, người có thẩm quyền trong thi hành án hình sự.
Tổ chức, kích động, xúi giục, lôi kéo, dụ dỗ, giúp sức, cưỡng bức người khác vi
phạm pháp luật về thi hành án hình sự; trả thù, xâm phạm tính mạng, sức khoẻ,
danh dự, nhân phẩm, tài sản của người có trách nhiệm thi hành án hình sự. Không
ra quyết định thi hành án hình sự; không thi hành quyết định trả tự do theo quy
định của pháp luật và các quyết định khác của cơ quan, người có thẩm quyền
trong thi hành án hình sự. Đưa hối lộ, nhận hối lộ, môi giới hối lộ, nhũng
nhiễu trong thi hành án hình sự...
Bên cạnh đó, Luật có các quy định cụ thể
về: hệ thống tổ chức thi hành án hình sự; nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan quản
lý thi hành án hình sự thuộc Bộ Công an; nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan quản
lý thi hành án hình sự thuộc Bộ Quốc phòng; nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan thi
hành án hình sự công an cấp tỉnh; chế độ lao động của phạm nhân; tổ chức lao
động cho phạm nhân; chế độ ăn, ở đối với phạm nhân; tha tù trước thời hạn có
điều kiện…
Luật Thi hành án hình sự có 16 chương
với 207 điều, có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2020. Luật Thi hành án hình sự số
53/2010/QH12 hết hiệu lực kể từ ngày Luật này có hiệu lực thi hành.
5. Luật Giáo dục (sửa đổi) Gồm 9 Chương, 115 Điều, quy
định về hệ thống giáo dục quốc dân; cơ sở giáo dục, nhà giáo, người học; quản
lý nhà nước về giáo dục; quyền và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân
liên quan đến hoạt động giáo dục.
Về mục tiêu giáo dục, Luật khẳng định:
mục tiêu giáo dục nhằm phát triển toàn diện con người Việt Nam có đạo đức, tri
thức, văn hóa, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp; có phẩm chất, năng lực và ý
thức công dân; có lòng yêu nước, tinh thần dân tộc, trung thành với lý tưởng
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; phát huy tiềm năng, khả năng sáng tạo của
mỗi cá nhân; nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài,
đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và hội nhập quốc tế.
Luật nêu rõ: Phát triển giáo dục là quốc
sách hàng đầu. Phát triển giáo dục phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã
hội, tiến bộ khoa học, công nghệ, củng cố quốc phòng, an ninh; thực hiện chuẩn
hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa; bảo đảm cân đối cơ cấu ngành nghề, trình độ,
nguồn nhân lực và phù hợp vùng miền; mở rộng quy mô trên cơ sở bảo đảm chất
lượng và hiệu quả; kết hợp giữa đào tạo và sử dụng.
Luật cũng quy định cụ thể những hành vi
bị nghiêm cấm trong đó có quy định nghiêm cấm lợi dụng các hoạt động giáo dục
để xuyên tạc chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước, chống lại Nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, chia rẽ khối đoàn kết toàn dân tộc, kích
động bạo lực, tuyên truyền chiến tranh xâm lược, phá hoại thuần phong mỹ tục,
truyền bá mê tín, hủ tục, lôi kéo người học vào các tệ nạn xã hội. Cấm lợi dụng
hoạt động giáo dục vì mục đích vụ lợi. Cấm xúc phạm nhân phẩm, danh dự, xâm
phạm thân thể nhà giáo, cán bộ, nhân viên của cơ sở giáo dục và người học;
xuyên tạc nội dung giáo dục; gian lận trong học tập, kiểm tra, thi, tuyển sinh;
ép buộc học sinh học thêm để thu tiền; lợi dụng việc tài trợ, ủng hộ giáo dục để
ép buộc đóng góp tiền hoặc hiện vật... Luật cũng quy định không truyền bá tôn
giáo, tiến hành các lễ nghi tôn giáo trong cơ sở giáo dục của hệ thống giáo dục
quốc dân, cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội và
của lực lượng vũ trang nhân dân.
Để bảo đảm tính khả thi, Luật định nhà
nước ưu tiên đầu tư và thu hút các nguồn đầu tư khác cho giáo dục; ưu tiên đầu
tư cho phổ cập giáo dục, phát triển giáo dục ở miền núi, hải đảo, vùng đồng bào
dân tộc thiểu số, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, địa bàn
có khu công nghiệp. Nhà nước khuyến khích và bảo hộ các quyền, lợi ích hợp pháp
của tổ chức, cá nhân trong nước, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức,
cá nhân nước ngoài đầu tư cho giáo dục. Ngân sách nhà nước giữ vai trò chủ đạo
trong tổng nguồn lực đầu tư cho giáo dục.
Bên cạnh đó, cán bộ quản lý giáo dục có
trách nhiệm học tập, rèn luyện, nâng cao phẩm chất đạo đức, trình độ chuyên
môn, năng lực quản lý và thực hiện các chuẩn, quy chuẩn theo quy định của pháp
luật. Nhà nước có kế hoạch xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản
lý giáo dục.
Về sách giáo khoa giáo dục phổ thông,
Luật quy định mỗi môn học có một hoặc một số sách giáo khoa; thực hiện xã hội
hóa việc biên soạn sách giáo khoa; việc xuất bản sách giáo khoa thực hiện theo
quy định của pháp luật. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định việc lựa chọn sách
giáo khoa sử dụng ổn định trong các cơ sở giáo dục phổ thông trên địa bàn theo
quy định của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo. Tài liệu giáo dục của địa phương
do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh tổ chức biên soạn đáp ứng nhu cầu và phù hợp với
đặc điểm của địa phương, được Hội đồng thẩm định cấp tỉnh thẩm định và Bộ
trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo phê duyệt.
Hội đồng quốc gia thẩm định sách giáo
khoa do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo thành lập theo từng môn học, hoạt động
giáo dục ở từng cấp học để thẩm định sách giáo khoa; Hội đồng gồm nhà giáo, cán
bộ quản lý giáo dục, nhà khoa học có kinh nghiệm, uy tín về giáo dục và đại
diện cơ quan, tổ chức có liên quan; Hội đồng phải có ít nhất một phần ba tổng
số thành viên là nhà giáo đang giảng dạy ở cấp học tương ứng; Hội đồng và thành
viên Hội đồng phải chịu trách nhiệm về nội dung và chất lượng thẩm định.
Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo chịu
trách nhiệm về sách giáo khoa giáo dục phổ thông; phê duyệt sách giáo khoa để
sử dụng trong cơ sở giáo dục phổ thông sau khi được Hội đồng quốc gia thẩm định
sách giáo khoa thẩm định; quy định cụ thể tiêu chuẩn, quy trình biên soạn,
chỉnh sửa sách giáo khoa giáo dục phổ thông; quy định việc lựa chọn sách giáo
khoa trong cơ sở giáo dục phổ thông; quy định nhiệm vụ, quyền hạn, phương thức
hoạt động, tiêu chuẩn, số lượng và cơ cấu thành viên của Hội đồng quốc gia thẩm
định sách giáo khoa và Hội đồng thẩm định cấp tỉnh.
Bên cạnh đó, các quy định về cơ sở giáo
dục; giáo dục nghề nghiệp; giáo dục đại học; hướng nghiệp và phân luồng trong
giáo dục; liên thông giáo dục… cũng được quy định rất đầy đủ, cụ thể tại Luật
Giáo dục (sửa đổi).
Luật Giáo dục (sửa đổi) sẽ có hiệu lực
thi hành từ ngày 01/7/2020. Luật Giáo dục số 38/2005/QH11 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục số 44/2009/QH12 sẽ hết hiệu lực kể từ
ngày Luật này có hiệu lực thi hành./.
6. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật Kinh doanh bảo hiểm, Luật Sở hữu trí tuệ.
Tại Điều 1 về Sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật Kinh doanh bảo hiểm, Luật quy định dịch vụ phụ
trợ bảo hiểm là bộ phận cấu thành của hoạt động kinh doanh bảo hiểm, do doanh
nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm và tổ chức, cá nhân khác thực
hiện nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm: tư vấn bảo hiểm, đánh giá rủi ro bảo
hiểm, tính toán bảo hiểm, giám định tổn thất bảo hiểm, hỗ trợ giải quyết bồi
thường bảo hiểm. Đánh giá rủi ro bảo hiểm là hoạt động nhận diện, phân loại,
đánh giá tính chất và mức độ rủi ro, đánh giá việc quản trị rủi ro về con
người, tài sản, trách nhiệm dân sự làm cơ sở tham gia bảo hiểm. Giám định tổn
thất bảo hiểm là hoạt động xác định hiện trạng, nguyên nhân, mức độ tổn thất,
tính toán phân bổ trách nhiệm bồi thường tổn thất làm cơ sở giải quyết bồi
thường bảo hiểm.
Luật cũng quy định, giám sát hoạt động
kinh doanh bảo hiểm thông qua hoạt động nghiệp vụ, tình hình tài chính, quản
trị doanh nghiệp, quản trị rủi ro và việc chấp hành pháp luật của doanh nghiệp
bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm; áp dụng các biện pháp cần thiết để doanh
nghiệp bảo hiểm bảo đảm các yêu cầu về tài chính và thực hiện những cam kết với
bên mua bảo hiểm. Giám sát hoạt động cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo hiểm thông
qua việc chấp hành quy định về tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật trong lĩnh vực
phụ trợ bảo hiểm, trách nhiệm của cá nhân, tổ chức cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo
hiểm, điều kiện cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo hiểm, cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo
hiểm qua biên giới;.
Tại Điều 2 về sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật Sở hữu trí tuệ, Luật quy định Quyền sở hữu
công nghiệp đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí, nhãn hiệu
được xác lập trên cơ sở quyết định cấp văn bằng bảo hộ của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền theo thủ tục đăng ký quy định tại Luật này hoặc công nhận đăng ký
quốc tế theo điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành
viên. Quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu nổi tiếng được xác lập trên cơ
sở sử dụng, không phụ thuộc vào thủ tục đăng ký. Quyền sở hữu công nghiệp đối
với chỉ dẫn địa lý được xác lập trên cơ sở quyết định cấp văn bằng bảo hộ của
cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo thủ tục đăng ký quy định tại Luật này hoặc
theo điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
Về trình độ sáng tạo của sáng chế, Luật
quy định sáng chế được coi là có trình độ sáng tạo nếu căn cứ vào các giải pháp
kỹ thuật đã được bộc lộ công khai dưới hình thức sử dụng, mô tả bằng văn bản
hoặc dưới bất kỳ hình thức nào khác ở trong nước hoặc ở nước ngoài trước ngày
nộp đơn hoặc trước ngày ưu tiên của đơn đăng ký sáng chế trong trường hợp đơn
đăng ký sáng chế được hưởng quyền ưu tiên, sáng chế đó là một bước tiến sáng
tạo, không thể được tạo ra một cách dễ dàng đối với người có hiểu biết trung
bình về lĩnh vực kỹ thuật tương ứng.
Về quy định chuyển tiếp, Luật quy định,
trong thời hạn 01 năm kể từ ngày Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
Kinh doanh bảo hiểm, Luật Sở hữu trí tuệ có hiệu lực, cá nhân, tổ chức đang
cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo hiểm phải đáp ứng các quy định về điều kiện cung
cấp dịch vụ phụ trợ bảo hiểm theo quy định tại Luật này. Trường hợp sau 01 năm
không đáp ứng các quy định về điều kiện thì cá nhân, tổ chức không được tiếp
tục cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo hiểm cho đến khi đáp ứng đủ điều kiện. Các đơn
đăng ký sáng chế, chỉ dẫn địa lý được nộp trước ngày 14 tháng 01 năm 2019 được
tiếp tục xử lý theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ số
50/2005/QH11 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 36/2009/QH12. Các hợp đồng sử dụng nhãn
hiệu đã ký kết giữa các bên nhưng chưa được đăng ký với cơ quan quản lý nhà
nước về quyền sở hữu công nghiệp trước ngày 14 tháng 01 năm 2019 chỉ có giá trị
pháp lý đối với bên thứ ba kể từ ngày 14 tháng 01 năm 2019. Các vụ kiện xâm
phạm quyền sở hữu trí tuệ đã được cơ quan có thẩm quyền thụ lý trước ngày 14
tháng 01 năm 2019 nhưng chưa giải quyết xong thì tiếp tục áp dụng quy định của
Luật Sở hữu trí tuệ số 50/2005/QH11 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo
Luật số 36/2009/QH12 để giải quyết./.
7. Luật Phòng, chống tác hại của rượu, bia
Ngày 14 tháng 6 năm 2019 Quốc hội đã thông qua Luật này có hiệu lực từ ngày
01/01/2020.
Luật Phòng, chống tác hại của rượu, bia là đạo luật mang ý
nghĩa xã hội và tính nhân văn cao, với mục tiêu cao nhất cả trước mắt và lâu
dài là định hướng hành vi, thay đổi thói quen có hại, góp phần quan trọng nâng
cao thể chất, tinh thần, tuổi thọ và chất lượng cuộc sống của người dân.