Mặc dù một
số mô sinh học bắt nguồn từ heo đã được sử dụng trong y tế con người
nhưng các nhà khoa học vừa tuyên bố chúng phải trải qua quá trình xử
lý để làm cho các tế bào bất hoạt, hạn chế giá trị chữa bệnh của
chúng (Ảnh: sgudak/Depositphotos)
Được áp dụng cho vết bỏng
cấp độ 2 và 3, các tấm da tử thi người – còn được gọi allograft (tấm
cấy ghép trên 2 cá thể cùng loài) – ban đầu giúp bảo vệ vết thương
khỏi bị nhiễm khuẩn và mất chất lưu cùng với các biến chứng có
tiềm năng gây chết người có thể xảy ra sau đó. Khi bệnh nhân được ghép
ổn định, miếng allograft được gỡ ra và miếng da của chính bệnh nhân
lấy từ một phần khác của cơ thể sẽ được ghép vĩnh viễn lên vết
thương.
Không may, allograft thường
thiếu hụt nguồn cung cộng với việc chúng cũng đắt đỏ. Với nhận thức
đó, các nhà khoa học tại bệnh viện đa khoa Massachusetts đã phát triển
một dòng heo biến đổi gen từ những năm 1990. Những con vật này khuyết
một gen thường có ở heo mà không có trên người, cho phép các miếng
ghép da từ heo có vẻ ít “ngoại lai” hơn với hệ miễn dịch con người.
Công nghệ từ đó được được
thương mại hóa bởi một công ty trực thuộc có tên XenoTherapeutics dưới
dạng miếng cấy ghép mô tế bào sống Xeno-Skin. Trong một thử nghiệm lâm
sàng gần đây, bác sĩ phẫu thuật Jeremy Goverman của bệnh viện đa khoa
Massachusetts lần đầu tiên đã sử dụng một trong số các miếng ghép Xeno
này trên bệnh nhân.
Có kích thước 5x5 cm, Xeno-Skin
được áp lên một vết bỏng bên cạnh một miếng ghép allograft thông
thường có kích thước lớn hơn. Các 2 miếng ghép được cố định tại chỗ
sử dụng kẹp phẫu thuật và băng gạc và 5 ngày sau được gỡ ra. Tại
thời điểm đó, cả hai vùng phủ được phát hiện bề ngoài “không thể
phân biệt với nhau”, hoạt động tốt ngang nhau trong việc bảo vệ vết
thương bên dưới bằng cách tạm thời dính vào vết thương đến khi bệnh
nhân được ổn định.
Một miếng da ghép từ đùi
của bệnh nhân sau đó được áp vĩnh viễn vào vết thương với việc tốc
độ lành tiến triển như dự đoán. Điều quan trọng là các nhà khoa học
không phát hiện thấy việc lây truyền retrovirus nội sinh heo, một nguy cơ
làm hạn chế khả năng sống của mô sống hay các cơ quan cấy gép từ heo
sang người.
“Bước tiến nhỏ mà chúng tôi
đạt được ngày nay đại diện cho khoảng thời gian trải dài hàng thập kỷ
nghiên cứu trong nhiều lĩnh vực bao gồm sinh học cấy ghép, miễn dịch
học và kỹ thuật di truyền. Ngoài ra, tiến bộ nhanh trong công nghệ
chỉnh sửa gen đã mở ra một hướng đi hoàn toàn mới cho da heo chỉnh
sửa gen không bị đào thải, mở ra chương tiếp theo trong tiêu chuẩn chăm
sóc vết bỏng cũng như bệnh nhân cấy ghép”, Goverman cho biết thêm.
LH (New Atlas)