Sự cần thiết xây dựng Bộ Chỉ số
PII
Nghị quyết số 05-NQ/TW Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khóa XII về một số chủ trương, chính sách lớn nhằm tiếp tục đổi mới
mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động, sức
cạnh tranh của nền kinh tế, Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII
của Đảng, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030 và Chiến lược
phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo (KHCN&ĐMST) đến năm 2030
đã khẳng định phải đổi mới mô hình tăng trưởng của nước ta theo hướng “chuyển
dần từ dựa vào gia tăng số lượng các yếu tố đầu vào của sản xuất sang dựa vào
tăng năng suất, chất lượng lao động, ứng dụng khoa học - công nghệ và đổi mới
sáng tạo”. Tuy nhiên, chưa có các mô tả định lượng để giúp hình dung và cụ thể
hóa thành các mục tiêu, chỉ tiêu cụ thể. Do đó, cần thiết phải có một bộ chỉ số
mô tả hiện trạng mô hình phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) dựa trên
KHCN&ĐMST. Từ đó, cung cấp cơ sở khoa học, thực tiễn về điểm mạnh, điểm
yếu, các yếu tố tiềm năng, các điều kiện cần thiết, giúp các nhà hoạch định
chính sách và các cấp lãnh đạo có cơ sở khoa học và thực tiễn để xác định, lựa
chọn các định hướng, giải pháp phù hợp cho phát triển KT-XH dựa trên
KHCN&ĐMST ở cả cấp quốc gia và cấp địa phương.
Ở cấp quốc gia, từ năm 2017, như nhiều quốc gia khác trên thế
giới, Chính phủ đã sử dụng bộ chỉ số ĐMST toàn cầu (GII) do Tổ chức Sở hữu trí
tuệ Thế giới (WIPO) công bố hằng năm nhằm qua đó xác định các điểm mạnh, điểm
yếu của quốc gia. Từ đó, đưa ra các giải pháp, biện pháp cải thiện phù hợp,
cũng như để kịp thời xây dựng, ban hành các chính sách có liên quan. Tại Nghị
quyết hằng năm, Chính phủ phân công cụ thể đến từng bộ, ngành để chủ trì theo
dõi và cải thiện các chỉ số Việt Nam còn hạn chế, đồng thời giao Bộ KH&CN
làm đầu mối điều phối, theo dõi chung.
Thứ trưởng Bộ KH&CN Bùi Thế Duy báo cáo tham luận: Kế hoạch triển khai Chiến lược phát triển KHCN&ĐMST đến năm 2030 và kết quả thử nghiệm chỉ số ĐMST cấp địa phương
Dưới sự chỉ đạo, điều hành sát sao, cụ thể của Chính phủ, của Thủ
tướng Chính phủ, của các Phó Thủ tướng Chính phủ và sự vào cuộc hiệu quả của
các bộ, ngành, trong những năm qua kết quả Chỉ số GII của Việt Nam luôn có sự
cải thiện tích cực. Trong Báo cáo GII 2022 của WIPO, Việt Nam tiếp tục được
WIPO ghi nhận là quốc gia có điểm số cao hơn nhiều so với mức trung bình
của các nước cùng nhóm thu nhập. Trong 12 năm liền, Việt Nam luôn có kết quả
ĐMST cao hơn so với mức độ phát triển, cho thấy hiệu quả trong việc chuyển
các nguồn lực đầu vào thành kết quả đầu ra ĐMST. Việt Nam là một trong số ít
những quốc gia thu nhập trung bình thấp được WIPO ghi nhận có tốc độ bắt kịp về
ĐMST nhanh nhất (cho dù thứ hạng năm 2022 có giảm nhẹ do một số điều kiện khách
quan).
Ở cấp địa phương, qua theo dõi thực tế cho thấy các địa phương còn
lúng túng trong việc tham gia thực hiện Nghị quyết của Chính phủ về cải thiện
chỉ số GII cấp quốc gia. Một trong những lí do là chỉ số GII đánh giá ở cấp
quốc gia nên nhiều số liệu thống kê tương tự ở cấp địa phương không có, đồng
thời phương pháp đánh giá theo quy chuẩn quốc tế còn mới nên có những điểm
không phù hợp với cấp địa phương của Việt Nam. Bên cạnh đó, do có sự khác biệt
giữa các địa phương về quy mô KT-XH, về dân số, đất đai, cơ cấu kinh tế, định
hướng phát triển... nên các địa phương cần và phải lựa chọn mô hình phát triển
KT-XH dựa trên KHCN&ĐMST khác nhau, phù hợp với bối cảnh, điều kiện, đặc
điểm riêng của địa phương mình. Những vấn đề trên làm cho các địa phương không
nắm được thực trạng mô hình phát triển KT-XH dựa trên KHCN&ĐMST của địa
phương mình, do đó nhiều địa phương kiến nghị cần có bộ chỉ số ĐMST dành riêng
cho địa phương để căn cứ vào đó có thể chỉ đạo điều hành tốt hơn, sát với thực
tiễn hơn.
Cung cấp bức tranh tổng thể về hiện trạng mô hình phát triển kinh
tế - xã hội
Theo Thứ trưởng Bộ KH&CN Bùi Thế Duy, thực hiện phân công của
Chính phủ tại cuộc họp thường kì tháng 1/2022 (Nghị quyết 12/NQ-CP ngày
30/01/2022), trong thời gian qua Bộ KH&CN đã tích cực phối hợp với Tổ chức
WIPO và các cơ quan liên quan xây dựng Bộ Chỉ số ĐMST cấp địa phương và đã tổ
chức triển khai thử nghiệm tại 20 tỉnh/thành phố ở 6 vùng kinh tế, có mức thu
nhập khác nhau, cơ cấu kinh tế khác nhau, đủ tiêu chí để đại diện cho tất cả 63
tỉnh/thành phố trên phạm vi toàn quốc.
Được sự hỗ trợ kỹ thuật của WIPO, trên cơ sở nghiên cứu và tham
khảo kinh nghiệm xây dựng các bộ chỉ số cấp địa phương đã có trong nước (PCI,
PAR, PAPI…) và kinh nghiệm nước ngoài (trên thế giới mới chỉ có một số quốc gia
xây dựng bộ chỉ số ĐMST cấp địa phương như Trung Quốc, Ấn Độ, Columbia, Mỹ...
trong đó, Ấn Độ và Columbia cũng dựa trên bộ chỉ số ĐMST toàn cầu GII của
WIPO), Bộ KH&CN đã xây dựng Bộ Chỉ số ĐMST cấp địa phương theo 10 bước như
hướng dẫn của OECD cho xây dựng bộ chỉ số tổng hợp, phù hợp với bối cảnh thực
tiễn, đặc điểm của các địa phương ở Việt Nam.
Thứ trưởng Bùi Thế Duy cho biết, Bộ Chỉ số
ĐMST cấp địa phương của Việt Nam có 51 chỉ số, chia làm 7 trụ cột theo nguyên
lý của bộ chỉ số GII (05 trụ cột đầu vào phản ánh những yếu tố tạo điều kiện
thuận lợi cho phát triển KT-XH dựa trên KHCN&ĐMST, bao gồm (1) Thể chế, (2)
Nguồn nhân lực và nghiên cứu, (3) Cơ sở hạ tầng, (4) Trình độ phát triển của
thị trường và (5) Trình độ phát triển kinh doanh; 02 trụ cột đầu ra phản ánh
kết quả tác động của KHCN&ĐMST vào phát triển KT-XH gồm: (6) Sản phẩm tri
thức, sáng tạo và công nghệ, (7) Tác động).
Trong giai đoạn thiết kế khung chỉ số và các chỉ số thành phần, sự
tham gia cố vấn kỹ thuật tích cực của Tổ chức WIPO, sự phối hợp, chia sẻ kinh
nghiệm của các Bộ, cơ quan đã xây dựng thành công các chỉ số cấp địa phương tại
Việt Nam, sự tham gia đóng góp ý kiến của các địa phương đã giúp Bộ KH&CN
xây dựng và hoàn thiện được khung chỉ số và các chỉ số thành phần. Trong giai đoạn
thu thập dữ liệu, Bộ KH&CN đã tổ chức nhiều hội thảo, nhiều buổi làm việc
với các bộ, cơ quan trung ương để trao đổi thống nhất thu thập dữ liệu từ các
cơ quan quản lý nhà nước (có 37/51 chỉ số được lấy dữ liệu từ các cơ quan quản
lý nhà nước). Đồng thời, với các địa phương, Bộ KH&CN đã xây dựng tài liệu
hướng dẫn và tập huấn cho các địa phương để thu thập các dữ liệu liên quan tại
địa phương (có 14/51 chỉ số được lấy dữ liệu từ các địa phương).
Quá trình thử nghiệm Bộ Chỉ số cho thấy, do hệ thống thống kê của
chúng ta còn chưa bắt kịp với quốc tế nên một số chỉ số theo thông lệ quốc tế
hiện chưa được thống kê cả ở cấp quốc gia và địa phương. Vấn đề này sẽ cần phải
quyết tâm khắc phục trong thời gian tới để đánh giá xác thực hơn hiện trạng của
các địa phương cũng như của quốc gia. Trong giai đoạn xử lí, phân tích dữ liệu
và xây dựng báo cáo, Bộ KH&CN đã tổ chức tính toán theo đúng các chuẩn mực
quốc tế và sau đó gửi tới chuyên gia quốc tế độc lập (do WIPO chỉ định và chi
trả kinh phí) để chuyên gia thực hiện đánh giá độc lập kết quả xây dựng và thử
nghiệm bộ chỉ số trên nhiều góc độ: phương pháp thiết kế bộ chỉ số, độ tin cậy
của dữ liệu, kết quả tính toán...
Bộ Chỉ số PII gồm 51 chỉ số, chia làm 7 trụ cột.
Theo kết quả phân tích, đánh giá, các địa phương tham gia thử
nghiệm được chia thành 4 nhóm, nhóm dẫn đầu gồm 2 địa phương; nhóm thứ hai là
gồm 4 địa phương; nhóm thứ ba gồm 8 địa phương, và 4 địa phương thuộc nhóm cuối
cùng (có 2/20 địa phương không có đủ dữ liệu nên không đưa vào danh sách đánh
giá). Kết quả đánh giá cho thấy có phù hợp, tương đồng cao với đặc thù mô hình
phát triển KT-XH của các địa phương. Các địa phương thuộc nhóm dẫn đầu là các
địa phương phát triển KT-XH và có hoạt động KHCN&ĐMST mạnh mẽ (Hà Nội và Đà
Nẵng).
Với mỗi địa phương, kết quả đánh giá, xếp hạng của từng chỉ số (51
chỉ số), nhóm chỉ số và trụ cột được trình bày trong một bảng thông tin tổng
hợp. Đồng thời, 5 điểm mạnh và 5 điểm yếu của mỗi địa phương cũng được chỉ rõ.
Trên cơ sở các thông tin chi tiết này, các địa phương có thể nhận diện được các
vấn đề cần chú trọng để từ đó có các chỉ đạo, điều hành trong việc xây dựng và
thực hiện các biện pháp, giải pháp thúc đẩy phát triển KT-XH dựa trên
KHCN&ĐMST của địa phương, góp phần nâng cao năng lực kinh doanh, năng lực
cạnh tranh, năng lực ĐMST của địa phương và của quốc gia
Vừa qua, chuyên gia quốc tế độc lập do WIPO chỉ định đã tiến hành
kiểm định độc lập bộ chỉ số. Kết quả kiểm định của chuyên gia quốc tế đã khẳng
định khung chỉ số và các chỉ số thành phần được thiết kế phù hợp, phản ánh được
hiện trạng của đối tượng được đo lường; các bước xử lí dữ liệu, tính toán điểm
số và thứ hạng đều được thực hiện đầy đủ, chính xác, minh bạch và đáng tin cậy.
Kết quả thử nghiệm cho thấy Bộ Chỉ số ĐMST cấp địa phương đủ mạnh để đưa ra
những kết luận hữu ích. Kết quả kiểm định cũng cho thấy còn một vài chỉ số cần
được xem xét khi triển khai trên phạm vi toàn quốc trong thời gian tới. Việc rà
soát, xem xét, tinh chỉnh hằng năm để phù hợp với bối cảnh và mục tiêu cũng là
thông lệ chung trong xây dựng các chỉ số tổng hợp.
Bộ chỉ số đo lường ĐMST cấp địa phương sẽ cung cấp bức tranh thực
tế, tổng thể về hiện trạng mô hình phát triển KT-XH dựa trên KHCN&ĐMST của
từng địa phương. Qua đó, bộ chỉ số sẽ cung cấp căn cứ và bằng chứng về điểm
mạnh, điểm yếu, về các yếu tố tiềm năng và các điều kiện cần thiết để thúc đẩy
phát triển KT-XH dựa trên KHCN&ĐMST của từng địa phương. Trên cơ sở kết quả
thử nghiệm thành công Bộ Chỉ số ĐMST cấp địa phương năm 2022, tại hội nghị, Bộ
KH&CN kiến nghị Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ cho phép chính thức triển
khai Bộ Chỉ số ĐMST cấp địa phương trên phạm vi toàn quốc từ năm 2023./.
Nguồn: Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển truyền
thông KH&CN