Là một trong những tướng tài ba của nhà Nguyễn, Nguyễn Hữu
Cảnh được chúa Nguyễn Phúc Chu tin dùng. Đầu năm Nhâm Thân (1692), ông được cử
lãnh đạo quân lính bình định biên cương. Sau đó được thăng chức từ Thống binh
lên Chưởng cơ, trấn thủ Bình Khương (nay là huyện Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa).
Mùa xuân năm Mậu Dần (1698) Nguyễn Hữu Cảnh được chúa Nguyễn
Phúc Chu cử vào kinh lược vùng đất Đồng Nai - Nam bộ. Đây là vùng đất được người
Việt vào khai khẩn đầu thế kỷ XVII. Năm 1679, các đoàn người Hoa theo Trần
Thượng Xuyên, Dương Ngạn dịch từ Trung Quốc đến thần phục Nam triều, được chúa
Nguyễn cho phép định cư ở Đồng Nai. Họ cùng người Việt lập nên thương cảng cù
lao phố sầm uất bây giờ. Nguyễn Hữu Cảnh dừng chân ở cù lao phố (nay thuộc
thành phố Biên Hòa) bắt tay vào việc tổ chức hành chính xác định biên cương,
lãnh thổ, lập thành làng xã, thôn xóm, quy định các thứ thuế đinh điền và chỉ
đạo phát triển kinh tế ở vùng đất mới. Ông chia xứ Đồng Nai (bao gồm cả Nam Bộ
bấy giờ) ra làm hai huyện thuộc phủ Gia Định, bao gồm: huyện Phước Long (Biên
Hòa) có dinh trấn Biên và huyện Tân Bình (Sài Gòn) có dinh Phiên Trấn. Đối với
người Hoa, ông cho phép nhập hộ tịch và chia thành hai nhóm: xã Thanh Hà tại
Đông Phố thuộc Trấn Biên và xã Minh Hương tại Gia Định thuộc Phiên Trấn. Ông
Khuyến khích dân chúng khai phá ruộng rẫy, trồng lúa, lập vườn, chăn nuôi…
Chẳng bao lâu, vùng đất hoang sơ này trù phú, người dân có cuộc sống sung túc,
nhà cửa mọc lên nhiều, đất đai mở rộng ngàn dặm vuông… là nền tảng cho việc
phát triển về sau.
Cuối năm 1698, ông trở về Bình Khương (Khánh Hòa), công việc
kình lược vùng đất mới phía Nam
cơ bản đã hoàn thành. Đồng Nai trở thành địa phận hành chính và chính thức có
tên trên bản đồ quốc gia Đại Việt.
Tháng 7 năm Kỷ Mão (1699) Nguyễn Hữu Cảnh lại được cử đi dẹp
loạn ở vùng biên cương miền Tây Nam
bộ. Sau khi dẹp loạn xong, đoàn quân của ông kéo về đến đồn Cây Sao (cù lao ông
Chưởng ở An Giang) thì bị nạn bệnh dịch lớn xảy ra. Nguyễn Hữu Cảnh bị nhiễm
bệnh nặng không thể cứu chữa. Đền Rạch Gầm (tức nơi ngã ba sông Tiền) thì ông
qua đời vào ngày 16 tháng 5 năm 1700, hưởng dương 50 tuổi.
Trên đường đưa thi hài ông về Quảng Bình, quan tài ông đã
tạm dừng vài ngày tại cù lao phố, nơi ông đặt bản doanh trước đó. Tại nơi này,
người dân Biên Hòa đã xây ngôi quyền một vọng tưởng ông.
Chúa Nguyễn đã truy tặng ông là Hiệp tán công thần. đặc tiến
chưởng Dinh, Tráng hoàn hầu. Đời vua Minh Mạng, ông được truy tặng “Khai quốc
công thần Tráng Võ Tướng Quân Vĩnh An Hầu”
Nguyễn Hữu Cảnh là “vị công thần trên đường gian lao mở
nước” và được nhân dân khắp nơi tôn kính lập đền miếu thờ phụng (Đồng Nai, An
Giang, Huế, Quảng Bình…)
Đối với vùng đất Đồng Nai - Gia Định, Nguyễn Hữu Cảnh là bậc
“Khai quốc công thần”. Ở đây, ông đặt tổng hành dinh, chi di dân lập ấp, dựng
thành trinh trấn, mở đường cho việc khuếch trương kinh tế, thương mại. Người
dân Đồng Nai trân trọng công lao của ông đã cải đình Bình Hoàng thành Bình Kính
thờ ông với lòng ngưỡng vọng sâu sắc. Mãi mãi nghi nhớ công lao của Nguyễn Hữu
Cảnh với sự nghiệp khai sáng đất Đồng Nai
Theo sách Biên Hòa - Đồng Nai 300 năm hình thành và phát triển
(1) Thành là tên ghi
trong gia phả, mà Cảnh mới tên là tên húy của ông. Vì hay kiêng tên húy (gọi
nôm na là tên cúng cơm). Do đó Cảnh được gọi chênh ra là Kính