Năm 1679 chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần cho phép đoàn người Hoa
do Trần Thượng Xuyên, Trần An Bình, Dương Ngạn Địch và Hoàng Tấn dẫn đầu vào
khai khẩn vùng Đông Phổ còn hoang sơ, đất rộng người thưa. Dương Ngạn Địch và
Hoàng Tần định cư ở Mỹ Tho - Định Tường. Còn Trần Thượng Xuyên và Trần An Bình
dừng chân ở Bàn Lân (Biên Hòa). Tại cù lao Phố, ông chiêu tập thương nhân, lập
phố xá lo mở mang nông nghiệp, buôn bán và trao đổi hàng hóa. Thời bấy giờ
đường giao thông chủ yếu đường thủy. Ông đã chọn cù lao Phố là một trảng đất
nổi, đất phù sa dễ thích ứng cho việc trồng trọt, xung quanh cù lao bốn bề là
dòng sông Đồng Nai bao bọc rất thuận tiện cho thuyền bè qua lại. Chính vì vậy
mà cù lao Phố đã sớm trở thành một đô thị sung túc và bến cảng nổi tiếng ở phía
Nam thời bấy giờ, là nơi trao đổi các mặt hàng nông nghiệp, ngư nghiệp và tiểu
thủ công nghiệp được nhiều tàu bôn ngoại quốc: Anh, Pháp, Hà Lan, Tây Ban Nha,
Bồ Đào Nha, Nhật Bản, Ấn Độ, Trung Quốc, Mã Lai, Nam Dương… đến mua bán.
Cảnh phồn thịnh của cù lao phố đã được miêu tả như sau: “Nhà
ngói vách vôi, lầu quán hai tầng rực rỡ trên bờ sông liên lạc 5 dặm và phân
hoạch ra 3 đường phố, đường lớn giữa phố lót đá trắng, đường nhỏ lót đá xanh,
đường ngang lót đá ong, đường rộng bằng phẳng, người buôn tụ tập đông đúc, tàu biển
ghe sông đến đậu neo chen lấn lẫn nhau, còn những nhà buôn bán to lớn ở đây là
nhiều hơn hết, làm thành một đại đô hội (Trích “Đại Nam nhất thống chí Lục tỉnh
Nam Việt” tập thượng, Biên Hòa - Gia Định, trang 30-31). Hay cảnh buôn bán của
thương cảng cù lao Phố đã được Trịnh Hoài Đức miêu trả trong “Gia Định thành
thông chí” như sau: “Từ xưa các thuyền ngoại quốc tới này (Châu Đại phố) bỏ
neo, mướn nhà ở rồi kê khai các số hàng trong chuyến ấy cho các hiệu buôn trên
đất liền biết. Các hiệu buôn định giá hàng, tốt lẫn xấu, rồi bao mua tất cả, không
để một món hàng nào ứ đọng. Đến giờ ngày trở buồm về, gọi là “hồi đường”. Chủ
thuyền cần mua món hàng gì, cũng phải làm sẵn hóa đơn đặt hàng trước mua dùm.
Như thế, khách chủ được tiện lợi và sổ sách phân minh. Khách chỉ việc đờn hát
vui chơi, đã có nước ngọt đầy đủ, lại khỏi lo ván thuyền bị hà ăn…”.
Ngoài việc đưa dân đi khai hoang lập nghiệp. Trần Thượng
Xuyên còn tỏ rõ là võ tướng lão luyện, ông từng giúp chúa Nguyễn dẹp loạn và
đánh tan nhiều mưu đồ phản loạn của giặc giã nổi lên trong vùng nhằm bảo đảm sự
yên lành cho vùng đất mới của đất nước Đại Việt (bấy giờ).
Theo Lương Văn Lựu trong “Biên Hòa sử lược toàn biên” thì
Trần Thượng Xuyên mất vào khoảng năm 1720 (ngày 23 tháng 10 âm lịch) và được an
táng ở phía Bắc dinh Trấn Biên thuộc huyện Phước Bình (Tân Uyên) phủ Phước Long
(Biên Hòa).
Còn theo bài vị thờ ở chùa Thanh Lương (phường Bửu Hòa,
thành phố Biên Hòa) thì Trần Thượng Xuyên sinh năm 1655 và mất năm Canh Thìn
1700. Trong khi sử nhà Nguyễn ghi năm 1715, ông cùng với Nguyễn Cửu Phú đi đánh
dẹp quân phản loạn, hạ được thành La Bích. Đến năm 1725, con trai ông là Trần
Đại Định (rẻ Mạc Cửu ở Hà Tiên) nối nghiệp cha phục vụ chúa Nguyễn, được phong
đến tước Tổng binh Định Viễn Hầu, chỉ huy cả hai đạo binh Phiên Trấn và Long
Môn. Cả ba đời họ Trần (Thượng Xuyên), con là Trần Đại Định và cháu là Trần Lực
đều là những tướng tài được chúa Nguyễn trọng dụng, vì vậy chúa Nguyễn đã ban
đặc ân “Nguyễn vi vương, Trần vi tướng, đại đại côn thần bất duyệt”. Đến đời
Minh Mạng và Thiệu Trị, Trần Thượng Xuyên được phong là Thượng đẳng thần và
được nhân dân vùng Đồng Nai - Gia Định lập đền thờ ghi công nhớ công lao như
bậc tiền hiền lưu dấu chân khai mở vùng đất mới Nam Bộ.
Tại Biên Hòa, nhân dân lập đền thờ ông. Ngày 23 tháng 10 âm
lịch là ngày khách thập phương đến đình tân lân viếng “Đức Ông” Trần Thượng
Xuyên.
Theo sách Biên Hòa - Đồng Nai 300 năm hình thành và phát triển