Trịnh Hoài Đức sinh năm 1765 và mất năm 1825, đều là năm Ất
Dậu, tròn 60 tuổi. Ông còn có tên là An, tự Chỉ Sơn, hiệu là Cẩn Trai. Khi mất
được vua Minh Mạng ban tên thụy Văn Khác.
Nội tổ ông là Sư Khổng Trịnh Hội, nguyên quán huyện Trường Lạ,. tỉnh
Phước Châu, miền nam Trung Hoa, cùng nhóm đi thần “bài Mãn phục Minh” do Trần
Thượng Xuyên cầm đầu được chúa Hiền Nguyễn Phúc Thuần thuận cho gia đình ông
tập cư tại thôn Bình Trước, dinh Trấn Biên.
Thân sinh Trịnh Hoài Đức là Trịnh Khánh, trưởng thành trên
quê hương mới và kết duyên cùng một cô gái Việt xứ Đồng Nai. Ông nổi tiếng học
rộng, văn hay chữ tốt nên thăng tiến rất nhanh. Nhưng không may ông chết sớm
khi đang thụ chức ở Bá Canh, Quy Hóa, Quy Nhơn. Lúc ấy Trịnh Hoài Đức vừa tròn
10 tuổi (1775).
Trịnh Hoài Đức theo học cụ Võ Trường Toản. Ông tỏ ra thông
minh, chăm học và cũng tại đây, ông kết bạn với Lê Quang Định va Ngô Nhơn Tịnh
để sau này trở thành ba vì sao lấp lánh trên bầu trời Nam, mệnh danh là “Gia
Định Tam gia”. Năm 1778, Nguyễn Ánh mở khoa thi Gia Định, ba ông ra ứng thi và
đều đỗ đạt.
Trịnh Hoài Đức bổ nhiệm và lần lượt giữ chức Hàn lâm chế
cao, Điều thuấn huyện Tân Bình. Năm Quý Sửu (1763) sung chức Đông cung Thị
giảng (dạy Hoàng tử Cảnh) và phò tá Đông cung Cảnh ra trấn thành Diên Khánh.
Năm Giáp Dần (1794) thăng chức Ký lục Trấn Dinh (Định Tường). Năm 1801, Trịnh
Hoài Đức lại sung chức Hộ bộ Tham trì đồn trú Lưỡng Quảng, khi Lê Văn Duyệt và
Tống Viết Phúc đốc quân đi cứu thành Bình Định.
Năm 1802, Nguyễn Ánh lên ngôi, ông lại được thăng chức
Thượng thư bộ Hộ và cùng Ngô Nhơn Tịnh, Hoàng Ngọc Uẩn đi sứ dâng Quốc thư lên vua nhà Thanh.
Trịnh Hoài Đức làm quan trải 2 triều vua Gia Long, Minh
Mạng, được tin yêu, giữ nhiều chức vụ quan trọng như Hiệp tổng trần, Lại bộ Thượng
thư, Phố Tổng tài Quốc Tử giám, Hiệp biện Đại học sĩ, Thượng thư bộ Lại và bộ
Binh. Ông còn là chánh chủ khảo cho những kỳ thi Hội ở Huế. Tài năng và nhân
cách, đức độ của ông là một tấm gương sáng bấy giờ.
Trong huyết quản của ông là hai dòng máu Hoa - Việt hòa
trộn, nhưng xem ra dòng máu Việt có phần đỏ thắm hơn. Ông yêu vùng đất đã cưu
mang và ưu ái ông không chút hoài nghi và ông đã đem hết tâm huyết, tài năng,
nghị lực phục vụ cho đất nước - quê mẹ ông. Ít có vị quan nào cùng lúc được
lòng vua mà vẫn được nhân dân thương yêu toàn vẹn như Trịnh Hoài Đức. Đặc biệt,
Trịnh Hoài Đức luôn xác định mình là công dân Đại Việt, ngay cả khi ông sang
Trung Hoa. Qua một số bài trong tập “Bắc xứ thi tập” ông luôn hướng sự hoài cảm
của ông về tổ quốc Đại Việt. Đối với nhân dân, trước cảnh lầm than, khói lửa
can qua, ông chia sẻ nỗi đau của thần dân Đại Việt:
Năm ba ông lão xóm
Đông
Hái rau thay gạo đói
lòng sớm hôm
Hay:
Diều quạ no nê kêu rộn
bãi
Hồn ma vất vưởng khóc
thâu canh.
Cuối thế kỷ XVIII đầu XIX cùng với sự trung hưng của triều
Nguyễn, môi trường văn hóa cũng được các nho sĩ Đàng Trong nhen nhóm, khơi dậy
chói lòa một giai đoạn lịch sử.
Bắt đầu là nhóm Chiêu Anh Các với Thập bát Anh do Mạc Thiên
Tích khởi xướng ở Hà Tiên (1738), với “Minh bột di ngư”, “Hà Tiên thập vịnh”,
“Lê khể nhàn điếu”.
Tiếp theo là Gia Định Sơn Hội ra đời với các gương mặt tiêu
biểu: Chỉ sơn Trịnh Hoài Đức, Nhứ sơn Ngô Nhơn Tịnh, Hối sơn Huỳnh Ngọc Uẩn, Kỳ
sơn Diệp Minh Phụng, Phục sơn Vương Kế Sinh. Là những vì sao lấp lánh trên văn
đàn Đồng Nai - Gia Định. Bình Dương thị xã ra đời rực rỡ với Gia Định Tam gia
làm nở rộ một thời văn học Hàn lâm của đất trời phương Nam.
Trịnh Hoài Đức là nhà văn hóa ưu tú của xứ Đồng Nai. Ông để
lại cho hậu thế một kho tàng trước tác đồ sộ gồm văn thơ và công trình nghiên
cứu lịch sử. Từ năm Minh Mạng nguyên niên đã dâng vua hai bộ “Lịch Đài kỷ
nguyên” và Khương tế lục” và đặc biệt bộ biên niên sử “Gia Định thành thông
chí”. Đây là quyển sử ghi lại đầy đủ nhất, toàn diện nhất diện mạo xứ Đàng
Trong trong thời kỳ khai phá lập nghiệp của đoàn người Việt Nam tiến. Cho
mãi về sau này, Quốc sử quán triều Nguyễn cũng đã dựa vào nguồn tư liệu quan
yếu của “Gia Định thành thông chí” để biên soạn các bộ sử và cho cả ngày nay,
các nhà khoa học xã hội nước ta không thể cần đến bộ sách này. Người Pháp cũng
sớm biết giá trị của tác phẩm, nên ngay sau khi thôn tính Nam Kỳ, Garbiel
Aubaret lập tức dịch và xuất bản bộ sử này bằng tiếng Pháp tại Paris (1863).
Tháng ba năm Ất Dậu (1825), sau một thời gian lâm bệnh, Trịnh Hoài Đức qua đời
tại Phú Xuân, thọ 60 tuổi. Vua Minh Mạng khóc ông với những lời lẽ tiếc thương
đau đớn. Truy tặng chức Thiếu Bão Cần chánh diện Đại học sĩ, phái hoàng thân
Miên Hoằng thân đi tế lễ và di linh cữu ông về Nam, theo nguyện vọng của ông.
Linh cửu Trịnh Hoài Đức về đến Phiên Trấn, Tả quân Tổng trấn
Lê Văn Duyệt đích thân phúng viếng rồi hộ ông về chôn cất nơi quê mẹ tại làng
Bình Trước, tỉnh Biên Hòa.
Năm 1852 linh vị được đưa vào thờ ở Trung hưng Công Thần
miếu. Năm 1858, đưa vào điện Hiểu Trung.
Ông là một con người tài đức vẹn toàn, được vua (hai triều Gia
Long - Minh Mạng) tin yêu, quần thần ngưỡng vọng. Làm quan đến chức cực phẩm mà
sống giải dị, thanh cao, chỉ biết quên mình lo việc ích nước, lợi dân.
Về phương diện văn hóa, ông là nhà thơ, nhà viết sử lỗi lạc
hàng đầu còn là vô giá, dù ở góc độ khoa học hay nghệ thuật.
Những thế hệ con dân Biên Hòa - Đồng Nai về sau vẫn biết sơn
và tự hào về ông - một tài năng lớn, một nhân cách lớn đã góp phần đặt nền móng
cho một vùng hào khí Đồng Nai - Văn hóa Đồng Nai.
Theo sách Biên Hòa - Đồng Nai 300 năm hình thành và phát
triển