Tô Văn Tuấn sinh ngày 7 tháng 3 năm 1914 tại làng Uyên Hưng,
tổng Chánh Mỹ Trung, quận Tân Uyên, tỉnh Biên Hòa. Từ nhỏ, ông được gia đình
cho ăn học đến nơi đến chốn. Rời trường làng, Tô Văn Tuấn theo học trường
Pétrus Ký ở Sài Gòn. Ông đỗ tú tài niên khóa 1933 - 1944, nhằm lúc Đông Dương
lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế, xã hội nên không có điều kiện học. Năm
1936, Tô Văn Tuấn làm công chức ở sở Kho bạc Sài tiếp Gòn và bắt đầu tham gia
văn nghệ.
Nhà văn Bình-Nguyên Lộc (1914-1988)
Năm 1945, Cách mạng tháng tám bùng nổ, Tô Văn Tuấn tham gia
với nhiệm vụ được giao: phụ trách tuyên truyền của huyện Tân Uyên, tỉnh Biên
Hòa. Sau này, vào những năm đầu của thập niên 50, Tô Văn Tuấn chủ trương tuần
báo vui sống tại Sài Gòn, quy tụ nhiều cây bút với mục đích phổ biến kiến Bút
danh Bình Nguyên Lộc đã trở thành một hiện tượng của giới viết văn Sài Gòn.
Bằng những suy nghĩ và cái nhìn về cuộc sống tinh tế của mình, Bình Nguyên Lộc
đã sáng tác hàng loạt tác phẩm lưu dấu trên văn đàn thời bấy giờ. Kể từ khi
Bình Nguyên Lộc đăng truyện ngắn đầu tiên có tên Phù sa trên tạp chí Thanh niên
Sài Gòn đến năm 1974, nhà văn đã có khoảng 1000 truyện ngắn và nhiều công trình
nghiên cứu được đăng trên các tạp chí, báo hoặc in thành sách. Có thể kể những
tác phẩm được xuất bản của Bình Nguyên Lộc như: Nhốt gió (1950), Đỏ dọc (1958),
gieo gió gặt bão (1959), Ký thác (1959), Mối tình cuối cùng (1963), Hoa hậu bồ đào (1963), Bóng ai
qua ngoài song cửa (1963), Bóng ngoài qua cửa sổ (1963), Mùa thu nhớ Tằm
(1965), Đừng hỏi tại sao (1965), Tình đất (1966), Thầm lặng (1967), sâu đêm bố
ráp (1968), Nhìn xuân người khác (1969)…
Nổi bật ở Bình Nguyên Lộc là những sáng tác về
con người vùng đất Nam bộ: Từng thế hệ với những bước chân đi mở cõi đến cuộc
sống thực tại. Để thực hiện những trang viết của mình, Bình Nguyên Lộc đã rong
ruổi thực tế trên nhiều vùng quê của Nam bộ.
Không chỉ là một nhà văn - sáng tác nhiều, Bình Nguyên Lộc
còn được biết đến với tư cách là một nhà nghiên cứu. Ông đã có công chú giải
nhiều tác phẩm văn chương cổ điển Việt Nam như: Văn Chiêu hồ, Tiếc thay
duyên Tấn, phận Tần (Nguyễn Du), tự tình khúc (Cao Bá Nhạ), Thu dạ lữ hoài ngâm
(Đinh Nhật Thận). Những công trình nghiên cứu “Lột trần Việt ngữ”, đặc biệt là
tác phẩm “Nguồn gốc Mã lai của dân tộc Việt” được sự chú ý của giới khoa học.
Mặc dù còn có những luận điểm trong công trình nghiên cứu của ông chờ sự thẩm
định của lịch sử, nhưng những đóng góp đó rất đáng trân trọng.
Sau ngày đất nước được thống nhất, nhà văn Bình Nguyên Lộc
sinh sống tại thành phố Hồ Chí Minh và tham gia sinh hoạt trong Hội Văn nghệ
Giải phóng Khu Sài Gòn - Gia Định. Nhưng không bao lâu Bình Nguyên Lộc ngã
bệnh. Bệnh tim hành hạ ông đến phải nằm liệt cùng với bao bất hạnh đổ ập xuống
gia đình. Trong lúc khốn cùng ấy, con cái của nhà văn bảo lãnh ông ra nước
ngoài để chữa bệnh. Những năm tháng định cư ở nước ngoài, Bình Nguyên Lộc có
viết một số truyện ngắn. Những trang viết cuối đời, ông viết về thân phân của
những người xa xứ, nổi buồn, nỗi nhớ khắc khoải. Tâm hồn Bình Nguyên Lộc luôn
hướng về Tổ quốc. Năm 1988, Bình Nguyên Lộc mất, thọ 74 tuổi. Cuộc đời của ông như chuyến “Đò dọc”
thắm đượm nghĩa tình của quê hương.
Theo sách Biên Hòa - Đồng Nai 300 năm hình thành và phát triển