Sản xuất thông minh gắn chặt với “công nghiệp 4.0”
Hiện nay, thuật ngữ “sản xuất thông minh” thường được sử dụng để mô tả quá trình phát triển trong quản lý sản xuất và sản xuất chuỗi (sản xuất, sử dụng, tái chế…), do đó, thuật ngữ này có ý nghĩa quan trọng đối với các nước công nghiệp dựa trên nền sản xuất hiện đại.
Thuật ngữ sản xuất thông minh gắn chặt với thuật ngữ “công nghiệp 4.0”. Công nghiệp 4.0 xuất hiện đầu tiên ở Đức. Sự tiến bộ của Đức nổi bật hơn nhiều so với các quốc gia khác; ví dụ, các chuyên gia Đức tin rằng họ hiện đang ở mức 3,8 và sẽ mất một thập kỷ, có thể ít hơn, để đạt 100% sản xuất Công nghiệp 4.0. Điều này là do doanh nghiệp không thể chuyển từ 3.0 sang 4.0 trong một ngày hoặc một bước, vì việc di chuyển mất thời gian và có nhiều giai đoạn khác nhau.
Thuật ngữ sản xuất thông minh và công nghiệp 4.0 đã quen thuộc, phổ biến ở một số nước phương tây, thuật ngữ này không quá quen thuộc với nhiều người ra quyết định tổ chức hoặc các nhà hoạch định chính ở nhiều quốc gia khác nhau. Trong khi đó, đối với các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam, quá trình sản xuất sản phẩm lại phụ thuộc tương đối nhiều các công ty nước ngoài. Do đó, nếu Việt Nam có thể nắm bắt cơ hội để phát triển quá trình quản lý sản xuất và sản xuất chuỗi, năng suất lao động và tỷ lệ sản lượng đơn vị sản xuất hiện tại sẽ tăng đáng kể. Đó sẽ là chỉ số quan trọng cho thấy sản xuất thông minh là “động lực” thúc đẩy sự phát triển nền sản xuất của Việt Nam.
Những năm gần đây, đặc biệt là năm 2018 kinh tế Việt Nam tăng trưởng ngoạn mục. Việt Nam giờ đã là một “công xưởng lớn” của thế giới và là một điểm tựa cho nhiều tập đoàn lớn xuyên quốc gia cung ứng sản phẩm, dịch vụ cạnh tranh tại khu vực và trên toàn cầu.
Bên cạnh đó, sự lớn mạnh của nhiều tập đoàn kinh tế tư nhân cũng cho thấy môi trường kinh doanh của Việt Nam hoàn toàn có thể ươm mầm nên những doanh nghiệp lớn, có tầm cỡ và khả năng cạnh tranh, là đối tác xứng tầm của các tập đoàn quốc tế.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy, nền công nghiệp Việt Nam còn hạn chế, thiếu nền sản xuất hiện đại, quy mô lớn; kỹ năng làm việc còn yếu; số lượng đơn vị sản phẩm được tạo ra còn thấp khi so sánh với các quốc gia trong khu vực. Đặc biệt, công nghiệp hỗ trợ còn phát triển “chậm chạp”.
Nhìn từ phía cơ chế, chính sách, hơn 10 năm qua, Chính phủ và các bộ, ngành đã ban hành nhiều quy định nhằm thúc đẩy công nghiệp hỗ trợ phát triển (như Nghị định số 111/2015/NĐ-CP năm 2015 về phát triển công nghiệp hỗ trợ; Quyết định 68/QĐ-TTg năm 2017 phê duyệt Chương trình phát triển công nghiệp hỗ trợ từ năm 2016 đến năm 2025; Quyết định 598/QĐ-TTg của Thủ tướng phê duyệt Kế hoạch cơ cấu lại ngành công nghiệp giai đoạn 2018-2020, xét đến năm 2025…), tuy nhiên khoảng cách từ chính sách đi đến thực tiễn vẫn còn khá lớn, đặc biệt là khâu tổ chức thực hiện các chính sách, giải pháp liên quan đến nâng cao năng lực sản xuất của các doanh nghiệp để từng bước có khả năng tham gia sâu hơn vào dây chuyền sản xuất công nghiệp hỗ trợ, phát triển nguồn nhân lực.
Ngoài ra, việc thiếu cơ sở hạ tầng nhà máy, mức độ ứng dụng công nghệ theo sự phát triển của ngành còn thấp… được xác định là những thách thức lớn đối với một quốc gia đang phát triển như Việt Nam trong bối cảnh của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4.
Bên cạnh đó, lực lượng lao động Việt Nam hiện chủ yếu vẫn là lao động có trình độ tay nghề thấp. Số lao động chưa qua đào tạo chuyên môn kỹ thuật chiếm đại đa số (khoảng 80%) lực lượng lao động xã hội. Chất lượng lao động của nhóm lao động có trình độ tay nghề chưa cao, chưa đáp ứng yêu cầu của thị trường cả về chuyên môn và trình độ ngoại ngữ.
Năng lực đổi mới sáng tạo của đội ngũ lao động Việt Nam chưa đáp ứng được yêu cầu tiếp cận cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 và xu hướng sản xuất thông minh. Theo Báo cáo năng lực cạnh tranh toàn cầu năm 2019, Việt Nam xếp thứ 67/141, tăng bậc so với giai đoạn 2015 – 2016 xếp thứ 56/140 quốc gia, tuy nhiên, năng lực đổi mới sáng tạo vẫn nằm trong nhóm trung bình (xếp hạng từ 84-111) và thứ 5 trong các nước ASEAN.
Hạn chế lớn nhất của thị trường lao động Việt Nam là năng suất lao động thấp. Năng suất lao động thấp được xem như hệ quả tất yếu của chất lượng nguồn lao động thấp và năng lực đổi mới sáng tạo yếu. Do đó, nâng cao năng suất lao động là đòi hỏi cấp bách để thị trường lao động phát triển, đáp ứng yêu cầu mới của nền kinh tế dưới ảnh hưởng của cách mạng công nghiệp lần thứ 4. Nếu Việt Nam không quyết liệt cơ cấu lại kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng đi đôi với phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao và tăng cường năng lực khoa học – công nghệ, nguy cơ tụt hậu là rất lớn.
Ảnh minh họa.
Các chuyên gia dự báo rằng, doanh nghiệp sẽ có thể tăng năng suất lên khoảng 30% khi tham gia vào “cuộc chơi” của cách mạng công nghiệp 4.0 và sản xuất thông minh.
Tích hợp sản xuất thông minh vào doanh nghiệp sẽ góp phần quan trọng giúp doanh nghiệp kịp thời đưa ra các quyết định quản lý để có thể nắm bắt nhanh chóng tất cả cơ hội của thị trường trong nước và quốc tế. Một số quốc gia đang phát triển như Việt Nam mới tham gia vào “sân chơi” của lĩnh vực công nghiệp, đã và đang phải đối mặt với những thách thức về quan điểm, khái niệm và tính chất, đặc điểm của sản xuất thông minh.
Do đó, Việt Nam cần thời gian để nghiên cứu, triển khai và áp dụng các yếu tố của sản xuất thông minh để có những thành tựu quan trọng trong phát triển nền sản xuất. Theo kinh nghiệm tiếp cận của các nước đang phát triển và mới nổi như Ấn Độ, Malaysia, Thái Lan… việc đầu tư vào công nghệ và tích hợp với con người là nền tảng đầu tiên cho sự phát triển của trình độ sản xuất.
Cơ hội để Việt Nam tiếp cận sản xuất thông minh trong bối cảnh CMCN 4.0
Thứ nhất, đó là sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và Chính phủ. Ngay từ Văn kiện Đại hội IX (2001), Đảng ta đã nhận định: “Kinh tế tri thức có vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất”. Tiếp đến là các Đại hội X (2006), Đại hội XI (2011), Đại hội XII (2016), Đảng ta nhấn mạnh vai trò của kinh tế trí thức và cho rằng Việt Nam phải vươn lên trình độ tiên tiến thế giới, “lấy khoa học, công nghệ, trí thức và nguồn nhân lực chất lượng cao làm động lực chủ yếu” của nền kinh tế.
Nghị quyết Bộ Chính trị Khóa XII còn nêu rõ: “Phải sớm xây dựng chiến lược tiếp cận và chủ động tham gia cuộc Cách mạng Công nghiệp 4.0”. Nghị quyết 23 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (22/3) về Chiến lược phát triển Công nghiệp Việt Nam đến năm 2030 tầm nhìn đến 2045 khẳng định: Việt Nam phải “tận dụng hiệu quả lợi thế của nước đi sau trong công nghiệp hóa, để có cách tiếp cận, ‘đi tắt, đón đầu’ một cách hợp lý trong phát triển các ngành công nghiệp”.
Các quan điểm, chủ trương, đường lối nêu trên của Đảng ta là rất quan trọng trong thời kỳ mới phát triển đất nước. Cụ thể hóa các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản thúc đẩy công nghiệp 4.0 và sản xuất thông minh. Đặc biệt, Chỉ thị 16/CT-TTg năm 2017 về tăng cường năng lực tiếp cận cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 do Thủ tướng Chính phủ ban hành đã giao các Bộ, ngành và địa phương tập trung chỉ đạo, tổ chức thực hiện có hiệu quả các giải pháp, nhiệm vụ nhằm chủ động nắm bắt cơ hội, đưa ra các giải pháp thiết thực tận dụng tối đa lợi thế, đồng thời giảm thiểu tác động tiêu cực của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đối với Việt Nam.
Chính phủ tập trung phát triển hạ tầng công nghệ thông tin, ưu tiên phát triển công nghiệp công nghệ số, nông nghiệp thông minh, du lịch thông minh, đô thị thông minh, thúc đẩy hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo, cải cách giáo dục và dạy nghề, đào tạo nguồn nhân lực có khả năng tiếp nhận các xu thế công nghệ sản xuất mới.
Bên cạnh đó, Chính phủ cũng thường xuyên đề cập đến nhiều vấn đề liên quan đến cải tiến công nghệ, đổi mới công nghệ trong mọi lĩnh vực của cuộc sống ở mọi khu vực công và tư tại Việt Nam. Chính phủ luôn khuyến khích đưa sự tiến bộ của các công nghệ vào tự động hóa, đặc biệt trong thời gian gần đây, số hóa nền kinh tế hay nói cách khác là chuyển đổi số là một trong các mục tiêu ưu tiên của Chính phủ.
Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ đã phê duyệt Chương trình khoa học và công nghệ trọng điểm cấp quốc gia giai đoạn đến năm 2025: Hỗ trợ nghiên cứu, phát triển và ứng dụng công nghệ của công nghiệp 4.0 (theo Quyết định số 2813/QĐ-BKHCN ngày 27 tháng 9 năm 2018). Chương trình đặt ra mục tiêu: nghiên cứu ứng dụng, phát triển và chuyển giao một số công nghệ chủ chốt của công nghiệp 4.0 mà Việt Nam có lợi thế để tạo ra các sản phẩm phục vụ phát triển kinh tế – xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh; hỗ trợ thí điểm đổi mới một số mô hình quản trị, sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp trong một số lĩnh vực chủ chốt theo hướng chuyển đổi số.
Theo báo cáo của các tổ chức uy tín trên thế giới, quyết tâm chuyển đổi số mạnh mẽ sẽ giúp các nước đang phát triển, trong đó có thể giúp Việt Nam tăng năng suất lao động từ 30 đến 40%, góp 20 đến 30% trong tăng trưởng GDP, tránh được bẫy thu nhập trung bình.
Thứ hai, sự trang bị đầy đủ kiến thức, đặc biệt là ở cấp quản lý và các nhà hoạch định chính sách. Đây được xác định là lợi thế lớn của Việt Nam để thực hiện tích hợp công nghệ nhằm tạo ra tự động hóa trên nền tảng công nghệ thông tin trong các ngành sản xuất ở Việt Nam.
Việt Nam đã có các chính sách có liên quan trực tiếp và gián tiếp phát triển công nghệ cao, công nghiệp 4.0 như: Đề án “Thanh toán không dùng tiền mặt” của Ngân hàng Nhà nước; “Số hóa” của Bộ Thông tin và Truyền thông; “Đổi mới công nghệ” của Bộ Khoa học & Công nghệ…
Báo cáo khảo sát cách mạng công nghiệp 4.0 Việt Nam năm 2018 (được thực hiện từ ngày 8 đến ngày 27 tháng 11 năm 2017 với sự phối hợp cùng Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam và Hội đồng Doanh nghiệp vì sự Phát triển bền vững Việt Nam) đã bước đầu nắm rõ quan điểm của lực lượng lao động tại Việt Nam về tác động của Cách mạng Công nghiệp 4.0. Trong đó, 67% người được hỏi dự đoán rằng cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ có tác động đáng kể đối với hoạt động của tổ chức họ trong vòng 3 năm tới; 64% cho rằng doanh nghiệp cần phải đi tiên phong trong hoạt động số hóa tại Việt Nam cùng với sự hỗ trợ của Chính phủ…
Việt Nam cần sự thích ứng các xu thế của cách mạng công nghiệp 4.0 và sản xuất thông minh, không chỉ để tăng tốc sản xuất mà còn tăng cường tăng trưởng kinh tế một cách mạnh mẽ. Việt Nam cần nắm bắt cơ hội để trở thành quốc gia hội nhập công nghệ, thay đổi tập quán trong sản xuất để mở rộng phạm vi sản xuất; tăng cường tự động hóa và trao đổi dữ liệu trong các công nghệ sản xuất để nâng cao năng suất, hiệu quả của nền sản xuất hiện nay.
Thứ ba, ý thức về sử dụng và áp dụng công nghệ thông tin ở Việt Nam khá cao. Đây là cơ hội tạo thêm việc làm trong sản xuất thông minh. Việt Nam đẩy mạnh ứng dụng các công nghệ số trong mọi lĩnh vực kinh tế – xã hội, đặc biệt đang tập trung vào một số ngành có lợi thế như du lịch, nông nghiệp, tài chính, ngân hàng và logistics…
Thứ tư, mức độ hội nhập quốc tế cao về khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và thương mại-đầu tư.
Bên cạnh các chương trình khoa học và công nghệ trọng điểm cấp nhà nước, các chương trình quốc gia về khoa học và công nghệ, Việt Nam đang triển khai chương trình tìm kiếm chuyển giao công nghệ từ nước ngoài, chương trình hợp tác nghiên cứu song phương, đa phương về khoa học và công nghệ. Việt Nam tham gia ký kết nhiều hiệp định thương mại tự do (FTA) thể hiện sự chủ động hội nhập quốc tế sâu rộng trong tiến trình tự do hóa thương mại khu vực và thế giới. Do vậy, Việt Nam có độ mở rất lớn trong nỗ lực nắm bắt sản xuất thông minh.
Theo: tcvn.gov.vn