Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Bí thư thứ nhất Lê
Duẩn dự Đại hội lần thứ XXII của Đảng Cộng sản Liên Xô, năm 1961. Ảnh: TTXVN
TƯ TƯỞNG, PHONG CÁCH, PHƯƠNG
PHÁP HỒ CHÍ MINH VỀ “DĨ BẤT BIẾN ỨNG VẠN BIẾN”
“Dĩ bất biến ứng vạn biến”
- đó là câu nói nổi tiếng của Hồ Chí Minh vào thời điểm tháng 5 năm 1946 trước
khi Người đi sang Pháp để “tìm kiếm một giải pháp hòa bình” để xây dựng, bảo vệ
chính quyền cách mạng non trẻ và đưa đất nước vượt qua hoàn cảnh “ngàn cân treo
sợi tóc”. Câu nói của Người đã thể hiện quan điểm kết hợp nhuần nhuyễn, chặt
chẽ giữa nguyên tắc của mục tiêu chiến lược với tính linh hoạt, uyển chuyển của
sách lược, giữa đường lối cách mạng và sách lược cách mạng. “Dĩ bất biến ứng
vạn biến là sự cô đúc tất cả tư tưởng, phương pháp, phong cách Hồ Chí Minh”(1). Đối
với Người, “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. “Chúng ta thà hy sinh tất cả,
chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”; “Nước ta là
một, dân tộc ta là một”; “Miền Nam là máu của máu Việt Nam, là thịt của thịt
Việt Nam”(2) là cái bất biến. Để thực hiện được cái bất biến
ấy, trong những tình thế hiểm nghèo, gian nan thử thách, người cách mạng phải
có bản lĩnh chính trị vững vàng, dũng cảm, sáng suốt và mưu lược để áp dụng
muôn vàn cái “vạn biến” trong đường đi nước bước mà hoàn cảnh đặt ra và đỏi hỏi
phải giải quyết.
Độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội - “dĩ bất biến” trong tư tưởng, phong cách, phương pháp Hồ Chí
Minh. Theo
Người, “Tất cả mọi người đều sinh ra bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền
không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền
tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc… Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra
bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”(3).
Cả cuộc đời hiến dâng cả cuộc đời cho sự
nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc và cuộc sống hạnh phúc, ấm no của
nhân dân, đặc biệt là từ sau khi đến với Cách mạng tháng Mười Nga và chủ nghĩa
Mác - Lênin thì mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là giá
trị bất biến trong tư tưởng và hành động của Người. Với chân lý “Không
có gì quý hơn độc lập, tự do” cho nên, dù
hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành
được độc lập “Kiên quyết bảo vệ nền độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn
lãnh thổ của nước Việt Nam. Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một,
không ai được xâm phạm đến quyền thiêng liêng ấy của nhân dân ta”(4).
Đối với Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc phải gắn liền với thống nhất và toàn vẹn
lãnh thổ, nhân dân được ấm no, tự do, hạnh phúc. Theo Người, chủ nghĩa xã
hội là con đường duy nhất để giải phóng dân tộc, để xây dựng một xã hội
phát triển cao hơn và tốt đẹp hơn, con người được giải phóng toàn diện. Bởi
vì, “chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các
dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”(5).
Chính vì vậy, Người luôn kiên định: “Yêu Tổ quốc, yêu nhân dân phải gắn liền
với yêu chủ nghĩa xã hội vì có tiến lên chủ nghĩa xã hội thì nhân dân mình mỗi
ngày một no ấm thêm, Tổ quốc mỗi ngày một giàu mạnh thêm”(6). Với tư
tưởng “Độc lập dân tộc kết hợp với chủ nghĩa xã hội”, Hồ Chí Minh đã tìm ra quy
luật vận động và phát triển của cách mạng Việt Nam - một quy luật “Thuận với
chiều hướng tiến hóa của nhân loại”(7), phù hợp với yêu cầu giải
phóng của xã hội Việt Nam nói chung và của mỗi con người nói riêng và vì vậy,
Người đã mở ra thời đại rực rỡ nhất trong lịch sử dân tộc.
Mềm dẻo, linh hoạt về sách
lược - “ứng vạn biến” trong tư tưởng, phương pháp, phong cách Hồ Chí
Minh. “Chân
lý là cụ thể, cách mạng là sáng tạo”, tư tưởng, phong cách của Người được hình
thành và không ngừng hoàn thiện thông qua quá trình rèn luyện, trải nghiệm qua
hành động thực tế, đúc rút, tổng kết thành lý luận. Chủ tịch Hồ Chí Minh căn
dặn: “Mục đích bất di bất dịch của ta vẫn là hòa bình, thống nhất, độc lập, dân
chủ. Nguyên tắc của ta thì phải vững chắc, nhưng sách lược của ta thì linh
hoạt. Các công tác phải phối hợp và liên hệ với nhau, bộ phận phối hợp với toàn
cục, v.v.. Mỗi công tác phải hợp với từng nơi, từng lúc, từng hoàn cảnh”(8).
Để thực hiện “dĩ vạn biến” thì phải luôn mềm dẻo, linh hoạt, sáng tạo trong
sách lược, trong từng thời điểm và trên mọi lĩnh vực của cuộc đấu tranh cách
mạng. Người đã kết hợp nhuần nhuyễn và xử lí một cách hoàn hảo mối quan hệ giữa
hai vấn đề tưởng chừng đối lập: tính kiên định về nguyên tắc, lý tưởng, niềm
tin và tính linh hoạt, uyển chuyển trong phương pháp tư duy và hành động. Điều
đó làm nên phong cách Hồ Chí Minh: vô cùng linh hoạt, uyển chuyển nhưng không
xa rời nguyên tắc; vô cùng cương nghị, cứng rắn về những vấn đề nguyên tắc,
nhưng không sơ cứng, sáo mòn.
Hồ Chí Minh đã từng
nói: “Không có lực lượng gì ngăn trở được mặt trời mọc. Không có lực lượng gì
ngăn trở được lịch sử loài người tiến lên. Cũng không có lực lượng gì ngăn trở
được chủ nghĩa xã hội phát triển”(9), đó là quá trình lịch sử - tự
nhiên. Tư tưởng, phong cách, phương pháp “dĩ bất biến, ứng vạn biến” luôn trong
quá trình vận động - “vạn biến” và xoay quanh trục “bất biến”. Với Người,
mối quan hệ biện chứng giữa “bất biến” và “vạn biến” đã được Người nhận thức và
giải quyết triệt để, nhất quán và đầy sáng tạo trong các giai đoạn lịch sử cách
mạng khác nhau. Mục tiêu chiến lược là bất di bất dịch; nhưng tùy hoàn cảnh cụ
thể ở trong nước và quốc tế, tùy từng giai đoạn lịch sử mà đề ra những sách
lược uyển chuyển, phù hợp.
VẬN DỤNG TRONG TÌNH HÌNH
MỚI
Thấm nhuần
lời dạy của Bác: “Với
sự lãnh đạo của Đảng, kết hợp phong trào thi đua yêu nước với cuộc vận động
chống tham ô, lãng phí, quan liêu, làm cho mọi người thấm nhuần ý thức làm chủ
nước nhà và tinh thần cần kiệm xây dựng Tổ quốc, thì chúng ta nhất định thắng
lợi”(10), chúng ta tiếp tục kiên định và vận dụng, phát triển sáng
tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong tình hình mới; kiên định
mục tiêu độc lâp dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới dưới
sự lãnh đạo của Đảng để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Đồng thời, trong các điều kiện, hoàn cảnh cụ thể chúng ta luôn nêu cao cảnh
giác cách mạng, khôn khéo, linh hoạt, mềm dẻo trong đối sách nhằm “khơi dậy khát
vọng phát triển đất nước, phát huy ý chí, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc
kết hợp với sức mạnh thời đại”(11), luôn đặt lợi ích quốc gia - dân
tộc, lợi ích nhân dân lên trên hết, trước hết. Trong đó, cần kiên định những
nguyên tắc, mục tiêu “bất biến” và mềm dẻo, sáng tạo “vạn biến” những phương
pháp, cách thức xử lý phù hợp với thực tiễn. Cụ thể là:
Một là, tiếp tục kiên định
mục tiêu, nguyên tắc “bất biến” của cách mạng Việt Nam.
Đại hội XIII của Đảng khẳng
định: “Tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta là
phải kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng
Hồ Chí Minh; kiên định độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định các
nguyên tắc xây dựng Đảng; bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ
sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi
để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đây là vấn
đề mang tính nguyên tắc, có ý nghĩa sống còn đối với chế độ ta, là nền tảng
vững chắc của Đảng ta, không cho phép ai được ngả nghiêng, dao động”(12).
Để thực hiện nguyên tắc “bất biến” này đòi hỏi chúng ta phải:
Trước hết, tiếp tục kiên
định con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội và mục
tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Độc lập dân tộc gắn liền
với là con đường duy nhất đúng của cách mạng Việt Nam và xu thế phát triển của
thời đại. Trong bối cảnh, tình hình mới Đảng ta xác định, tiếp tục nắm vững và
xử lý tốt các quan hệ lớn: Quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa
đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa tuân theo các quy luật thị trường và
bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây
dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa Nhà nước,
thị trường và xã hội; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá, thực hiện
tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường; giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng
lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ; giữa thực hành dân chủ và tăng
cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội. Trong đó, cần chú trọng hơn đến bảo
đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong nhận thức và giải quyết các quan hệ lớn.
Kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lâp, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội chủ
nghĩa.
Đại hội XIII của Đảng, xác
định: “Xây dựng xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, trật tự, kỷ cương, an
toàn, bảo đảm hạnh phúc của người dân”. Đây vừa là chủ trương chỉ đạo chiến
lược vừa thể hiện sự kiên định mục tiêu của cách mạng Việt Nam. Để đạt mục tiêu
đó, phải luôn quán triệt và thực hiện nghiêm túc quan điểm nhân dân là trung
tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ
trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích
chính đáng của nhân dân; lấy hạnh phúc, ấm no của Nhân dân làm mục tiêu phấn
đấu, củng cố; tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ
xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, phải đẩy mạnh thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa,
đảm bảo cơ chế dân chủ được khẳng định trong thực tiễn đời sống xã hội; vai trò
lãnh đạo của Đảng, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ luôn được phát huy.
Thứ
hai, giữ vững và nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực
cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội. Quán
triệt và thực hiện quan điểm Đại hội XIII của Đảng: “Nâng cao năng lực lãnh
đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống
chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện”(13).Tiếp tục xây dựng,
chỉnh đốn Đảng gắn với đổi mới phương thức lãnh đạo, nâng cao năng lực lãnh
đạo, cầm quyền của Đảng; xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Xây dựng hệ thống pháp
luật đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, lấy quyền và
lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, doanh nghiệp làm trọng tâm. Các tổ
chức của Đảng và đảng viên, phải gương mẫu tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, vừa
phải nắm vững, kiên định và chấp hành nghiêm các nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt
đảng. Cán bộ, đảng viên luôn để cao trách nhiệm nêu gương trong thực hiện đường
lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Thứ ba, kiên định quan
điểm lấy dân làm gốc, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền làm chủ
của Nhân dân. Đại
hội XIII của Đảng xác định: “Thực hiện đúng đắn, hiệu quả dân chủ trực tiếp,
dân chủ đại diện, đặc biệt là dân chủ ở cơ sở. Thực hiện có hiệu quả phương
châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”(14),
xử lý kịp thời, nghiêm minh tổ chức, cá nhân vi phạm dân chủ, làm phương hại
đến quyền làm chủ của nhân dân. Phát huy tính tích cực chính trị - xã hội, trí
tuệ, quyền và trách nhiệm của nhân dân tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức
chính trị - xã hội, xây dựng đội ngũ đảng viên, cán bộ, công chức; động viên
nhân dân tham gia phát triển kinh tế; quản lý và tự quản xã hội; xây dựng, quản
lý, thụ hưởng văn hoá; xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân,
ngoại giao nhân dân gắn với thế trận quôc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân
dân, thế trận lòng dân. Xử lý kịp thời, nghiêm minh những tổ chức, cá nhân lợi
dụng dân chủ, gây rối nội bộ, làm mất ổn định chính trị - xã hội hoặc vi phạm
dân chủ, làm phương hại đến quyền làm chủ của nhân dân.
Tổng Bí
thư Nguyễn Phú Trọng thị sát bên trong tàu ngầm HQ-184 Hải Phòng, trong chuyến
thăm và làm việc với Vùng 4 Hải quân tại Căn cứ quân sự Cam Ranh, tỉnh Khánh
Hòa. Ảnh: TTXVN
Thứ tư, kiên định đấu
tranh phòng, chống tham nhũng, suy thoái, "tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa ” trong nội bộ. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh ngăn chặn, đẩy
lùi tham nhũng, lãng phí, tiêu cực và các hành vi bao che, dung túng, tiếp tay
cho tham nhũng, với quyết tâm chính trị cao hơn, mạnh mẽ hơn và hiệu quả hơn,
đồng bộ các biện pháp cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức, hành chính, kinh tế,
hình sự; gắn phòng, chống tham nhũng với phòng, chống suy thoái về tư tưởng,
chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, xây dựng, chỉnh
đốn Đảng, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Tăng cường công
tác kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán; đẩy mạnh điều tra, truy tố, xét
xử, thi hành án; nâng cao hiệu quả thu hồi tài sản tham nhũng. Quy định rõ
trách nhiệm của người đứng đầu trong kiểm tra, phát hiện, xử lý tham nhũng;
kiểm soát hiệu quả tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn.
Hai là, “vạn biến”, linh
hoạt, sáng tạo trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện.
Trước hết, “vạn biến”,
linh hoạt, sáng tạo trong xây dựng Đảng về tư tưởng, tổ chức, đạo đức
và cán bộ. Kinh nghiệm hơn 90 năm của Đảng ta đã chỉ ra: Đảng thường
xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn giúp Đảng luôn có bản lĩnh chính trị kiên cường,
tầm tư duy sáng suốt, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền, xứng đáng là đội
tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam. Bởi
vậy, tiếp tục xây dựng, chỉnh đốn Đảng cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức và
đạo đức, làm cho Đảng đoàn kết, trong sạch, vững mạnh hơn, niềm tin của nhân
dân đối với Đảng được tăng cường luôn là nhiệm vụ then chốt. Cùng với thực hiện
nghiêm các nguyên tắc xây dựng Đảng, cần phải linh hoạt, sáng tạo, đề cao trách
nhiệm nêu gương và chuẩn mực đạo đức của cán bộ, đảng viên. Việc xử lý kỷ luật
nghiêm minh những cán bộ, đảng viên vi phạm, suy thoái về tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa giúp mỗi cán bộ, đảng viên tự
soi, tự sửa, tự điều chỉnh hành vi, tích cực rèn luyện đạo đức, lối sống, tác
phong công tác.
Thứ hai, quán triệt và thực
hiện quan điểm Đại hội XIII của Đảng: “Lấy hoàn thiện, nâng cao chất
lượng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đầy đủ, đồng bộ,
hiện đại, hội nhập và thực thi pháp luật hiệu lực, hiệu quả là điều kiện tiên
quyết để thúc đẩy phát triển đất nước”. Tập trung sửa đổi những quy định không
thống nhất, mâu thuẫn, chồng chéo, cản trở phát triển kinh tế xã hội. Đẩy mạnh
cải cách thủ tục hành chính, xây dựng chính quyền điện tử; đổi mới phân cấp,
phân quyền, ủy quyền và nâng cao trách nhiệm phối hợp giữa các cấp, các ngành,
tạo môi trường thuận lợi thúc đẩy khởi nghiệp sáng tạo. Đa phương hóa, đa dạng
hóa quan hệ kinh tế quốc tế, thực hiện nhiều hình thức hội nhập quốc tế, tránh
lệ thuộc vào một thị trường, một đối tác.
Thứ ba, tập trung hoàn thiện
và triển khai xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hoá và chuẩn mực con
người gắn với phát huy ý chí, khát vọng phát triển và sức mạnh của con người
Việt Nam trong thời kỳ mới. Ngăn chặn có hiệu quả sự xuống cấp về đạo đức, lối
sống, đẩy lùi tiêu cực và các tệ nạn xã hội. Bảo vệ và phát huy các giá trị tốt
đẹp, bền vững trong truyền thống văn hoá Việt Nam; xây dựng và thực hiện các
chuẩn mực văn hoá lãnh đạo, văn hoá quản lý, văn hoá công sở, văn hoá doanh
nghiệp, doanh nhân. Tăng cường quản lý và phát triển các loại hình thông tin
trên internet; kiên quyết đấu tranh, loại bỏ các sản phẩm, thông tin độc hại,
xuyên tạc, phản động, ảnh hưởng xấu đến ổn định chính trị - xã hội, thuần phong
mỹ tục; nâng cao sức đề kháng của nhân dân, đặc biệt là thanh, thiếu niên đối
với các văn hóa phẩm ngoại lai độc hại. Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế về
văn hoá, tích cực tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hoá nhân loại phù hợp với
thực tiễn, từng bước xây dựng Việt Nam thành địa chỉ hấp dẫn về giao lưu văn
hóa quốc tế.
Chủ tịch
Hồ Chí Minh thăm cán bộ và nhân dân tỉnh Phú Thọ năm 1962 (Ảnh:
https://phapluatxahoi.vn).
Thứ
tư, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ,
hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa quan
hệ. Phát biểu tại Hội nghị Đối ngoại toàn quốc triển khai Nghị
quyết Đại hội XIII của Đảng, Tổng Bí thư
Nguyễn Phú Trọng nói: “Chúng ta đã xây dựng nên trường phái đối ngoại và ngoại
giao rất đặc sắc và độc đáo của thời đại Hồ Chí Minh. Đây là trường phái riêng”
- “ngoại giao cây tre”. Đó là sự mềm mại, khôn khéo, nhưng rất kiên cường,
quyết liệt; linh hoạt, sáng tạo nhưng rất bản lĩnh, kiên định, can trường trước
mọi thử thách, khó khăn vì độc lập dân tộc, vì tự do, hạnh phúc của nhân dân.
Đoàn kết, nhân ái, nhưng kiên quyết, kiên trì bảo vệ lợi ích quốc gia - dân
tộc. Biết nhu, biết cương; biết thời, biết thế; biết mình, biết người; biết
tiến, biết thoái, “tuỳ cơ ứng biến”, “lạt mềm buộc chặt”.
Thứ năm, tăng cường quốc
phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Bảo
vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là quan điểm “bất biến” của Đảng
ta, song trong từng thời điểm, bước ngoặt của cách mạng đều có sự vận dụng phù
hợp, sáng tạo để thực hiện tốt quan điểm này. Đại hội XIII, Đảng ta xác định:
Củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia, ổn định chính trị, trật tự, an
toàn xã hội, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ
trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và toàn
dân, trong đó Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là nòng cốt. Tăng cường
tiềm lực quốc phòng và an ninh; xây dựng vững chắc nền quốc phòng toàn dân gắn
kết với nền an ninh nhân dân, “thế trận lòng dân” gắn với thế trận quốc phòng
toàn dân, thế trận an ninh nhân dân. Chủ động chuẩn bị về mọi mặt, sẵn sàng các
phương án bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và
giữ vững ổn định chính trị an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội trong mọi
tình huống. Phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ
thống chính trị kết hợp với sức mạnh thời đại, tranh thủ tối đa sự đồng tình,
ủng hộ của cộng đồng quốc tế, kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập,
chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước,
nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Chủ động ngăn ngừa các nguy cơ chiến
tranh, xung đột từ sớm, từ xa, phát hiện sớm và xử lý kịp thời những nhân tố
bất lợi, có thể gây đột biến. Chủ động đấu tranh làm thất bại âm mưu hoạt động
chống phá của các thế lực thù địch; sẵn sàng ứng phó với các mối đe dọa an ninh
truyền thống và phi truyền thống; bảo đảm an ninh quốc gia, an toàn thông tin,
an ninh mạng,... giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển bền vững
đất nước.
Hiện nay, tình hình thế
giới và trong nước có cả những thuận lợi, thời cơ và khó khăn, thách thức đan
xen đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới nặng nề, phức tạp hơn đối với sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” đặt ra
cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta phải có cách nhìn nhận, ứng xử hết sức
khoa học, khôn khéo, mềm dẻo để “bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc
trên cơ sở Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế bình đẳng, hợp tác,
cùng có lợi”(15). Kiên định và vận dụng, phát triển sáng
tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta luôn “dĩ bất biến”,
“ứng vạn biến” trong lãnh đạo chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa trong tình hình mới. Điều đó khẳng định bản lĩnh, trí tuệ, trách
nhiệm của Đảng, thể hiện ý Đảng thuận lòng dân trước sự phát triển toàn diện
của đất nước.
TS. Trần Việt Thắng
Đại học Bách khoa Hà Nội
------------------------
(1) Hoàng Chí Bảo: “Văn hóa
ứng xử Hồ Chí Minh - giá trị và ý nghĩa”, Tạp chí Cộng sản, Số tháng 5/2005
(2) Hồ Chí Minh: Toàn
tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2011, t.15, tr.627
(3) Hồ Chí Minh: Toàn
tập, Sđd, t.4, tr. 1.
(4) Hồ Chí Minh: Toàn
tập, Sđd, t.14, tr. 532.
(5) Hồ Chí Minh Toàn
tập, Sđd, t.12, tr. 563.
(6) (9) Hồ Chí Minh: Toàn
tập, Sđd, t.11, tr. 401, 158.
(7) Phạm Văn Đồng: Hồ
Chí Minh - tinh hoa và khí phách dân tộc, Nxb. Chính trị Quốc gia, H, 2012,
tr. 36.
(8) Hồ Chí Minh: Toàn
tập, Sđd, t.8, tr. 555.
(10) Hồ Chí Minh: Toàn
tập, Sđd, t.13, tr. 377.
(11) (12) (13) (14) (15)
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2021, t.I, tr. 14, 33, 111,
173, 109.
Nguồn: tuyengiao.vn