Tác phẩm “Đường Cách mệnh”
Tác phẩm là kết quả tập hợp những
bài giảng của Người dùng trong các lớp huấn luyện cán bộ của
Hội Việt Nam cách mạng thanh niên ở Quảng Châu (Trung Quốc) vào những
năm 1925, được Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở
Á Đông tập hợp, in thành sách “Đường Cách mệnh” vào năm 1927. Đây
là một trong những tác phẩm tiêu biểu, hàm chứa giá trị lý luận, thực tiễn to
lớn và sâu sắc, đóng vai trò quan trọng trong việc truyền bá chủ nghĩa
Mác-Lênin vào Việt Nam, trong việc kết hợp phong trào công nhân và yêu nước với
chủ nghĩa Mác, tạo lập các tiền đề tư tưởng, lý luận cho sự ra đời của Đảng
Cộng sản Việt Nam.
Tác
phẩm “Đường cách mệnh” ra đời trong bối cảnh phong trào đấu tranh của giai cấp
vô sản các nước trên thế giới phát triển mạnh mẽ, phong trào giải phóng dân tộc
ở trong nước đã xuất hiện nhiều tổ chức yêu nước mang sắc thái chính trị khác
nhau, thực tiễn lịch sử đòi hỏi phải có một tổ chức kiểu mới, có đường lối, tổ
chức đúng đắn, chặt chẽ thì mới lãnh đạo cách mạng đi đến thành công. Do đó,
Tác phẩm có ý nghĩa và vai trò như “kim chỉ nam” cho đường lối của cách mạng
Việt Nam. Một trong những nội dung cơ bản của Tác phẩm đã được Chủ tịch Hồ Chí
Minh và Đảng ta vận dụng linh hoạt và sâu sắc trong lãnh đạo cách mạng, đó là
vấn đề giải quyết mối quan hệ dân tộc - giai cấp của cách mạng.
TƯ TƯỞNG CỐT LÕI CỦA VẤN ĐỀ
GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ DÂN TỘC – GIAI CẤP
Tác phẩm “Đường Cách mệnh” với vấn đề giải
quyết mối quan hệ dân tộc - giai cấp là kết tinh sự thống nhất giữa bản chất
giai cấp công nhân, tính dân tộc Việt Nam và tính nhân loại trong tư tưởng Hồ
Chí Minh. Trong nghiên cứu và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách
mạng, Đảng ta luôn nhận thức về sự thống nhất nói trên. Tác phẩm đã thể hiện
rất rõ và sâu sắc tư tưởng của Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc, thực
chất là vấn đề giải phóng và phát triển dân tộc; vấn đề giai cấp, thực
chất là vấn đề giải phóng các giai cấp, tầng lớp khỏi tình trạng áp bức bóc
lột, đem lại cơm ăn áo mặc, tự do hạnh phúc cho nhân dân.
Trong điều kiện đất nước bị xâm lược, vấn đề
giai cấp luôn được Hồ Chí Minh đặt trong mối quan hệ biện chứng với vấn đề dân
tộc. Lợi ích của giai cấp thống nhất chặt chẽ với lợi ích dân tộc và lợi ích
dân tộc thống nhất với lợi ích quốc tế. Điều đó có nghĩa là chỉ có giải phóng
dân tộc mới giải phóng được giai cấp. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Cách mạng giải
phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì mới giành
được thắng lợi hoàn toàn”(1). Khi đất nước giành được độc lập
rồi thì giải phóng giai cấp chính là phải từng bước xoá bỏ nghèo nàn và lạc
hậu, vươn tới xây dựng cuộc sống ấm no, tự do và hạnh phúc thật sự cho tất cả
mọi người. Người cho rằng, sau khi giành được độc lập dân tộc rồi, mà nhân dân
lao động vẫn chưa được giải phóng, “không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập
cũng chẳng có nghĩa lý gì”(2). Đây là vấn đề nhất quán trong tư
tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc - giai cấp thể hiện sâu sắc trong tác phẩm
“Đường Cách mệnh”.
Theo Hồ Chí Minh, việc giải quyết mối
quan hệ dân tộc - giai cấp là yêu cầu khách quan để đi đến sự thống nhất giữa
lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp; quốc gia và quốc tế, là cơ sở để huy động
mọi nguồn lực của dân tộc cho thắng lợi của cách mạng. Tư tưởng này được
Người đúc rút từ các cuộc cách mạng điển hình trên thế giới, từ Cách mạng
Mỹ (1776) đến Cách mạng Pháp (1789), từ Công xã Pari (1871) đến Cách mạng Tháng
mười Nga (1917). Trong quá trình hoạt động và lãnh đạo cách mạng Việt Nam,
tư tưởng này đã được Người và Đảng ta giải quyết thành công mối quan hệ đó và
được chứng minh qua thực tiễn giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp.
TÁC PHẨM “ĐƯỜNG CÁCH MỆNH” VỚI VẤN ĐỀ GIẢI
QUYẾT MỐI QUAN HỆ DÂN TỘC – GIAI CẤP TRONG CÁC GIAI ĐOẠN CÁCH MẠNG
Giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp vô
sản có mối quan hệ biện chứng trong tư tưởng Hồ Chí Minh được thể hiện rất rõ
trong tác phẩm “Đường Cách mệnh”. Trong nội dung giải phóng dân tộc bao hàm nội
dung giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội. Sự nghiệp giải phóng dân tộc càng
tiến hành triệt để và thắng lợi bao nhiêu thì sự nghiệp giải phóng giai cấp vô
sản, giải phóng xã hội càng thuận lợi bấy nhiêu. Giai cấp vô sản được hoàn toàn
giải phóng cả về chính trị và kinh tế thì độc lập sẽ vững bền hơn bao giờ hết.
Xác định cách mạng Việt Nam “đi tới xã hội cộng sản” được ghi trong Cương lĩnh
của Đảng là một định hướng đúng, phản ánh sự thống nhất giữa giải phóng dân tộc
với giải phóng giai cấp. Đặt cách mạng giải phóng dân tộc nằm trong phạm trù
cách mạng vô sản, gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội làm cho quan điểm Hồ
Chí Minh mang tính toàn diện và triệt để.
Dưới góc độ giải phóng, độc lập dân tộc mới
chỉ là cấp độ đầu tiên. Giải phóng về mặt chính trị tự bản thân nó chưa phải là
công cuộc giải phóng hoàn toàn, độc lập dân tộc là tiền đề đầu tiên để tiến lên
chủ nghĩa xã hội, đưa con người đi tới cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Những
thiếu sót và thất bại của các nước xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu (cũ),
cũng như những khó khăn của Việt Nam từ sau 1975 đó cho thấy tầm quan trọng của
việc kết hợp giữa vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp, cũng như việc lựa chọn
con đường và bước đi cụ thể, phù hợp với khả năng và điều kiện của từng nước.
Toàn cầu hóa là xu thế tất yếu của loài người
khi bước vào thế kỷ XXI. Song, việc xử lý mối quan hệ giữa các dân tộc, giai
cấp và nhân loại trong xu thế này đang trở thành một vấn đề vừa có tính thời sự
cấp bách, vừa mang tính chiến lược lâu dài đối với mỗi quốc gia - dân tộc. Đối
với Việt Nam, để giữ vững chủ quyền, độc lập dân tộc và xây dựng đất nước đi
lên chủ nghĩa xã hội, đòi hỏi Đảng và Nhà nước cần nhận thức và giải quyết đúng
đắn mối quan hệ biện chứng giữa các nhân tố dân tộc, giai cấp, nhân loại trên
các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội... trong quá trình hội nhập
quốc tế. Muốn vậy, Đảng, Nhà nước và nhân dân cần kiên định nguyên tắc thống
nhất giữa dân tộc, giai cấp và nhân loại trong tư tưởng Hồ Chí Minh được thể
hiện sâu sắc trong tác phẩm “Đường Cách mệnh”.
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, đường
lối nhất quán và xuyên suốt của cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội. Do vậy, việc giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc với vấn
đề giai cấp và quốc tế được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam vận
dụng sáng tạo vào các giai đoạn cách mạng của nước ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh
luôn nhấn mạnh đến việc vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam phải hết sức
sáng tạo, phải tùy thuộc vào tình hình cụ thể của đất nước.
Do ở phương Đông, dân tộc được hình thành
sớm, ý chí tinh thần dân tộc cao, phong trào đấu tranh vì độc lập dân tộc mạnh
mẽ nên Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của
đất nước. Chủ nghĩa dân tộc được Hồ Chí Minh xem là động lực to lớn của người
Việt Nam và khi chủ nghĩa dân tộc thắng lợi dưới sự lãnh đạo của giai cấp công
nhân sẽ thống nhất với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân.
Đường lối cách mạng của Việt Nam được vận
dụng sâu sắc từ tư tưởng của Hồ Chí Minh trong tác phẩm “Đường Cách mệnh”. Qua
đó cho thấy Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta từ năm 1930 đến nay đã rất coi
trọng việc bồi dưỡng tinh thần dân tộc, giải phóng nhân dân lao động
khỏi mọi áp bức bất công, giải phóng dân tộc, thực hiện quyền tự quyết dân tộc
theo lập trường giai cấp công nhân. Qua các giai đoạn cách mạng, đường lối
xuyên suốt và nhất quán cách mạng Việt Nam là: Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội.
Để đảm bảo cho sự nghiệp
đổi mới, trong tất cả các văn kiện của Đảng luôn khẳng định mục tiêu cách mạng
Việt Nam là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh. Điều kiện cơ bản đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng là trung
thành, vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
và cũng có nghĩa là trung thành với lợi ích cơ bản lâu dài của giai cấp công
nhân, nhân dân lao động và lợi ích dân tộc.
Sự vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lê
nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc với vấn đề giai
cấp khi tiến hành công cuộc đổi mới ở Việt Nam được thể hiện trong sâu sắc Nghị
quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng: “Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là
đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân, với nông dân và trí
thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hòa các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội,
phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã
hội”(3). Như vậy, tư tưởng đoàn kết dân tộc và xem việc phát huy sức
mạnh đoàn kết của toàn dân tộc là động lực phát triển đất nước hiện nay chính
là sự quán triệt và vận dụng quan điểm lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh vào Việt Nam.
Việc
vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về giải quyết quan hệ dân tộc và giai
cấp được thể hiện qua các văn kiện Đảng trong thời kỳ đổi mới. Mối quan hệ
này trong cách mạng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải giải quyết một cách toàn
diện ở nhiều lĩnh vực, ở nhiều góc độ. Trong đó, tập trung trước hết ở giải
quyết các quan hệ lợi ích:
·
Lợi ích của giai cấp công nhân với lợi ích toàn dân
tộc.
·
Lợi ích của giai cấp công nhân với lợi ích các giai
cấp, tầng lớp khác.
·
Lợi ích của giai cấp công nhân với lợi ích các tộc
người trong quốc gia đa dân tộc Việt Nam.
·
Lợi ích của dân tộc Việt Nam với lợi ích các dân tộc
khác và lợi ích quốc tế nói chung trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội
nhập kinh tế quốc tế.
|
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VẬN DỤNG SÁNG TẠO TƯ
TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐÊ GIẢI QUYẾT QUAN HỆ DÂN TỘC – GIAI CẤP TRONG TÁC
PHẨM “ĐƯỜNG CÁCH MỆNH” PHÙ HỢP VỚI ĐIỀU KIỆN MỚI
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung phát triển năm 2011), Đảng
tiếp tục khẳng định quan điểm gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội là tư
tưởng xuyên suốt của cách mạng Việt Nam. Mặt khác, thể hiện những quan điểm cụ
thể trong giải quyết quan hệ lợi ích giữa các giai cấp, các tầng lớp trong xã
hội Việt Nam: “các giai cấp, các tầng lớp dân cư đoàn kết, bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi.
Xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng; là giai cấp
lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiên phong là Đảng Cộng sản Việt Nam, giai cấp
tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội”(4).
Cũng trong Cương lĩnh này, vấn đề quan hệ các dân tộc (với nghĩa các tộc người)
cũng được khẳng định: Thực hiện bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giúp nhau cùng
tiến bộ.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII đã rút ra 6 bài học chủ yếu của 10 năm đổi mới. Trong đó bài học đầu tiên
là: “Giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, nắm vững 2 nhiệm vụ
chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, kiên trì chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh”(5).
Cùng với bài học đã nêu là mở rộng và tăng
cường khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy sức mạnh của cả dân tộc, để tiếp tục
đưa sự nghiệp đổi mới tiến lên, giành những thành tựu to lớn hơn, cần thực hiện
tốt hơn nữa việc mở rộng, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, cả ở trong
nước và ở nước ngoài, phát huy dân chủ, động viên tối đa sức mạnh của toàn thể
dân tộc.
Đặc biệt, trong Đại hội IX, một luận điểm
mang tầm khái quát lý luận lớn của Đảng về quan hệ giai cấp, lợi ích giai cấp
và lợi ích dân tộc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam: “Mối
quan hệ giữa các giai cấp, các tầng lớp xã hội là quan hệ
hợp tác và đấu tranh trong nội bộ nhân dân,
đoàn kết và hợp tác lâu dài trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc dưới sự
lãnh đạo của Đảng”(6). Lợi ích giai cấp công nhân thống nhất với lợi
ích toàn dân tộc trong mục tiêu chung: Độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Đại hội X của Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục
thể hiện nhiều quan điểm mới của Đảng trong vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về
mối quan hệ giữa giai cấp và dân tộc. Trước hết, Đảng tiếp tục khẳng định bản
chất giai cấp công nhân của Đảng trước những khó khăn, thách thức và những biến
động bất lợi trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế: Đảng ta đã giữ vững
bản chất cách mạng của giai cấp công nhân, kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, “kim chỉ nam” cho hành động của Đảng.
Kiên định mục tiêu: Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Tiếp tục công cuộc đổi mới trong Văn kiện Đại
hội XI, XII của Đảng, đặc biệt là trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng
tiếp tục thể hiện những quan điểm mới, sáng tạo khi vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh giải quyết các quan hệ dân tộc - giai cấp - quốc tế đó là: “Nắm vững
ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội… Độc lập dân tộc là điều kiện tiên
quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững
chắc cho độc lập dân tộc. Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội
chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ chặt chẽ với nhau”(7).
Tiếp tục các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam từ Đại hội VII đến Đại hội XII về giải quyết mối quan hệ dân tộc - giai cấp
trong thời kỳ mới, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng năm 2021 khẳng định quan điểm
chỉ đạo: “Tiếp tục thực hiện đường lối đổi mới của Đảng… Kiên định và vận dụng,
phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục
tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”(8).
Kiên định đường lối đổi mới của Đảng, trong
thời gian tới phải tạo ra sự chuyển biến rõ rệt về xây dựng Đảng, phát huy
truyền thống cách mạng, bản chất giai cấp công nhân và tính tiên phong của
Đảng. Đây là nhiệm vụ then chốt có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và sự nghiệp
cách mạng của nhân dân ta, muốn vậy, phải kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Vận dụng sáng
tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong hoạt động của Đảng. Làm
được như vậy là Đảng ta đã thực hiện được ý nguyện trong Di chúc của
Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục
vụ Tổ quốc... phấn đấu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập
dân chủ và giàu mạnh và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”(9).
Tác
phẩm “Đường Cách mệnh” nói chung và tư tưởng về giải quyết mối quan hệ giữa vấn
đề dân tộc, vấn đề giai cấp và vấn đề quốc tế trong Tác phẩm là một sáng tạo
lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Tác
phẩm “Đường Cách mệnh” đến nay vẫn giữ nguyên giá trị cả về lý luận và thực
tiễn sâu sắc. Đó là bài học quý, đòi hỏi Đảng ta cần phải vận dụng và phát
triển sáng tạo phù hợp với điều kiện mới của đất nước trong quá trình hội nhập
sâu rộng quốc tế trên tất cả các lĩnh vực, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm
vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn hiện nay./.
TS.
Nguyễn Văn Vị
Viện
KHXH&NV Quân sự
-------------------------------
1.
Hồ
Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 5, Nxb CTQG, Hà Nội, tr. 392.
2.
Hồ
Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 2, Nxb CTQG, Hà Nội, tr. 603.
3.
Đảng
Cộng sản Việt Nam (2001), Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb
CTQG, Hà Nội, tr. 86.
4.
Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát
triển năm 2021).
5.
Đảng
Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII, Nxb CTQG, Hà Nội, tr. 14.
6.
Đảng
Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX, Nxb CTQG, Hà Nội, tr. 22.
7.
Đảng
Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI, Nxb CTQG, H, tr. 65.
8.
Đảng
Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII, Nxb CTQG Sự thật, Hà Nội, tr. 109.
9.
Hồ
Chí Minh: Toàn tập, tập
15, Nxb CTQG, Hà Nội. 2011, tr.611-614.
Nguồn:tuyengiao.vn