Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm Xưởng may 10,
ngày 8/1/1959. (Nguồn: hochiminh.vn)
NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA PHƯƠNG PHÁP TƯ DUY
HỒ CHÍ MINH
Đề cao tinh thần độc lập, tự chủ và sáng tạo.
Đây là nội dung bao trùm và điển hình nhất
trong phương pháp tư duy Hồ Chí Minh. Trong phương pháp tư duy của Người, độc
lập đồng nghĩa với không phụ thuộc, không bắt chước, không theo đuôi
bất kỳ một lý luận nào nếu không có sự đánh giá cẩn trọng, khoa học của chủ
thể. Mặc dù con đường nhận thức chân lý bao giờ cũng có sự kế thừa, nhưng là sự
kế thừa biện chứng, kế thừa và phát triển với tính độc lập của chủ thể nhận
thức, không phải là sự bắt chước, rập khuôn cách máy móc. Tự chủ có
nghĩa là xuất phát từ vị trí, vai trò của mình, chủ thể tự thân làm chủ mọi suy
nghĩ, hành vi của mình, làm chủ công việc của mình, tự thấy mình phải có trách
nhiệm với tập thể, với quốc gia, với dân tộc mình. Sáng tạo là
sẵn sàng từ bỏ những cái cũ, cái lạc hậu, cái không còn phù hợp đang cản trở sự
phát triển; đồng thời, tìm kiếm, học hỏi, đề xuất những cái mới có khả năng đáp
ứng những đòi hỏi của cuộc sống.
Tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo trong
phương pháp tư duy Hồ Chí Minh hình thành từ sớm, bộc lộ càng rõ trong quá
trình Người tìm đường cứu nước. Đến khi Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp cận với chủ
nghĩa Mác - Lênin thì tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo càng được nâng cao,
đã trở thành một phẩm chất bền vững, được thể hiện trong suốt cuộc đời hoạt
động cách mạng của Người. Chính điều đó đã làm cho tư duy của Chủ tịch Hồ Chí
Minh khác biệt so với tư duy của các nhà yêu nước tiền bối và đương thời, như
Hoàng Hoa Thám, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường... về con đường
cứu nước, mặc dù không ai phủ nhận các ông đều mong muốn giành độc lập cho đất
nước, tự do, hạnh phúc cho nhân dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đề cao tinh thần độc
lập, tự chủ và sáng tạo trong mọi hoạt động thực tiễn của mình. Người đã tư duy
để đối chiếu, so sánh, chắt lọc và tổng hợp những dữ liệu, những kinh nghiệm mà
cuộc sống đã đem lại, những tư tưởng của các thế hệ đi trước đã gợi mở, để từ
đó đi đến những nhận định mới, những kết luận mới và những tư tưởng mới. Phương
pháp tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh dựa trên cơ sở
tính cách mạng triệt để, tính biện chứng chặt chẽ và khoa học của chủ nghĩa Mác
- Lê-nin. Từ đó, Người đã từng bước xác lập cả một hệ thống tư tưởng, luận điểm
sáng tạo của riêng mình.
Quyết tâm vượt lên mọi thành kiến tư tưởng.
Đối với mỗi con người, để vượt qua được những
thành kiến do lối mòn tư tưởng cũ chi phối là một việc không dễ. Trong khi đó,
khác với tất cả những nhà yêu nước đương thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn biết
vượt lên những thành kiến tư tưởng và thể hiện năng lực làm chủ bản thân rất
cao. Không đi theo con đường cứu nước mà các vị tiền bối đã thực hiện, Chủ tịch
Hồ Chí Minh quyết định đi ra nước ngoài, tới chính đất nước của kẻ thù đang
giày xéo, đặt ách thống trị lên Tổ quốc mình để tìm đường cứu nước, cứu dân,
mang lại ấm no, hạnh phúc cho nhân dân, để tìm hiểu xem những gì ẩn giấu “đằng
sau khẩu hiệu “tự do, bình đẳng, bác ái là gì?”. Liệu người dân ở đó có được tự
do, bình đẳng và hạnh phúc thực sự hay không?
Ngay từ năm 1921, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh
không đồng tình với ý kiến cho rằng, Đông Dương chưa thể tiếp thu chủ nghĩa Mác
- Lênin do giai cấp vô sản ở Đông Dương chưa phát triển. Cùng với đó, Người đã
tích cực tiếp thu, vận dụng và phát triển sáng tạo lý luận cách mạng vô sản của
V.I. Lê-nin và kiên quyết đấu tranh cho tư tưởng này được hiện thực hóa trên
thực tế. Nguyễn Ái Quốc đề nghị: “Đảng phải tuyên truyền chủ nghĩa xã hội trong
tất cả các nước thuộc địa”(1). Từ những điều kiện lịch sử - xã hội
của các nước phương Đông, Người nhận thấy chủ nghĩa cộng sản hoàn toàn có thể
thâm nhập, tồn tại và phát triển ở châu Á, thậm chí còn dễ dàng hơn so với châu
Âu: “những lý do lịch sử cho phép chủ nghĩa cộng sản thâm nhập vào châu Á dễ
dàng hơn là ở châu Âu”(2).
Trong bản Tuyên ngôn độc lập năm
1945 khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trích
dẫn bản Tuyên ngôn độc lập của Mỹ cũng như bản Tuyên
ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp. Tuy nhiên, Người không chỉ dừng
lại ở việc trích dẫn 2 bản tuyên ngôn đó, khẳng định quyền tự do của mỗi cá
nhân như tinh thần của 2 bản tuyên ngôn này, mà còn khẳng định quyền độc lập,
tự do và quyền bình đẳng cho các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới.
Gắn lý trí với những tình cảm trong sáng, tình
yêu thương con người, thực hiện công cuộc xây dựng và cải tạo xã hội.
Cốt lõi của tình cảm cách mạng là đạo đức cách
mạng. Tình cảm cách mạng là khởi nguồn để có sáng tạo cách mạng. Khi tình cảm
đã nhạt phai thì trí tuệ cũng sẽ chịu ảnh hưởng không tốt. Ngược lại, tình cảm
mù quáng thì lý trí sẽ mất phương hướng. Tình cảm có những quy luật riêng của
mình. Nếu là xúc cảm nhất thời, nó thường đi đôi với nhận thức cảm tính, bồng
bột, thoáng qua và thiếu bền vững. Song ở Chủ tịch Hồ Chí Minh, những tình cảm
trong sáng, rất mãnh liệt bao giờ cũng chịu sự điều chỉnh, hướng dẫn chặt chẽ
của lý trí. Đó là bởi, tình cảm của Người dựa trên sự thấu hiểu sâu sắc về con
người, điều chỉ có ở một nhân cách lớn. Cả cuộc đời của Người là một tấm gương
sáng ngời về đạo đức cách mạng, về sự thống nhất giữa lý trí với những tình cảm
trong sáng, thấm đẫm tình yêu thương con người.
Ngay từ khi còn nhỏ, Người đã xúc động trước
tình cảnh người dân trên quê hương mình bị thực dân Pháp áp bức, bóc lột, hành
hạ một cách dã man. Có thể thấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh chịu ảnh hưởng sâu sắc
bởi truyền thống nhân nghĩa của dân tộc, cho nên đi tới đâu Người cũng chú ý
tới hai cảnh sống trái ngược giữa nhân dân lao động với tầng lớp thống trị,
giữa người bóc lột và người bị bóc lột; đồng thời, luôn có sự thấu cảm sâu sắc
trước những khó khăn, tủi nhục, vất vả của những người bị bóc lột và cuộc sống
lầm than của nhân dân lao động.
Tình yêu thương đồng bào, Tổ quốc và tình yêu
thương con người đã đưa Người đến với chủ nghĩa Mác - Lênin. Đồng thời, chính
lý luận cách mạng Mác - Lênin cũng nâng tầm những tình cảm trong sáng của
Người, giúp Người có thêm nghị lực để vượt qua mọi khó khăn, gian khổ và luôn
lạc quan, tin tưởng vào thắng lợi của sự nghiệp cách mạng, sự nghiệp giải phóng
dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh am hiểu rất sâu sắc và độc đáo về chủ nghĩa Mác -
Lênin. Người cho rằng, lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin không chỉ bao gồm các
khái niệm trừu tượng, các quy luật, phạm trù và chỉ thuộc về nhận thức lý trí,
mà còn bao hàm cả tình nghĩa, tức là gồm cả phương diện đạo đức. Chủ tịch Hồ
Chí Minh viết: “Hiểu chủ nghĩa Mác-Lênin là phải sống với nhau có tình có
nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống không có tình có nghĩa thì sao gọi là
hiểu chủ nghĩa Mác-Lênin”(3).
Lý luận của Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn gắn với
những phong trào hành động nhằm xây dựng và cải tạo xã hội. Người cho rằng, tư
duy lành mạnh tự nó bao giờ cũng hướng tới hành động cải tạo thực tiễn, cải
thiện cuộc sống con người. Trong cuộc đời hoạt động cách mạng đầy sôi nổi,
phong phú và gian khổ của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nắm vững mục tiêu
chiến lược, đồng thời biết vận dụng sách lược một cách khôn khéo để đưa cách
mạng tới thắng lợi hoàn toàn. Trong bức thư gửi các bạn cùng hoạt động ở Pháp,
Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Chúng ta phải làm gì? Chúng ta không thể đặt vấn đề
ấy một cách máy móc. Điều đó tùy hoàn cảnh của mỗi dân tộc chúng ta. Đối với
tôi, câu trả lời đã rõ ràng: trở về nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, đoàn
kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập”(4).
Coi trọng, gắn kết điều kiện khách quan với
phát huy nỗ lực chủ quan, kết hợp hài hòa giữa lý luận, thực tiễn và có tính tự
giác cao.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm tới những
điều kiện khách quan của cách mạng, đồng thời phát huy tính tích cực của nhân
tố chủ quan để đề ra cương lĩnh chiến lược cách mạng một cách phù hợp. Chánh
cương vắn tắt của Đảng (năm 1930) do Người soạn thảo có đoạn viết: “Tư bản bản
xứ đã thuộc tư bản Pháp, vì tư bản Pháp hết sức ngăn trở sức sinh sản làm cho
công nghệ bản xứ không thể mở mang được. Còn về nông nghệ một ngày một tập
trung đã phát sinh ra lắm khủng hoảng, nông dân thất nghiệp nhiều. Vậy tư bản
bản xứ không có thế lực gì ta không nên nói cho họ đi về phe đế quốc được, chỉ
bọn đại địa chủ mới có thế lực và đứng hẳn về phe đế quốc chủ nghĩa nên chủ
trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội
cộng sản”(5). Sau này, các văn kiện của Đảng đã ấn định phương hướng
phát triển của cách mạng Việt Nam là, tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân tiến thẳng lên cách mạng xã hội chủ nghĩa, không qua chế độ tư bản chủ
nghĩa.
Khi miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, nhận
định về tình hình đất nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “trong thời đại đế quốc
chủ nghĩa, ở một nước thuộc địa nhỏ, với sự lãnh đạo của giai cấp vô sản và
đảng của nó, dựa vào quần chúng nhân dân rộng rãi... với sự đồng tình và ủng hộ
của phong trào cách mạng thế giới, trước hết là của phe xã hội chủ nghĩa hùng
mạnh, nhân dân nước đó nhất định thắng lợi”(6). Chủ tịch
Hồ Chí Minh luôn dựa trên những điều kiện khách quan, kết hợp với nhân tố chủ
quan, trong đó có năng lực cá nhân xuất chúng, nhãn quan sắc bén để đề ra các
chủ trương, đường lối đúng đắn, đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến
thắng lợi khác.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đặc biệt coi trọng
công tác tổng kết lý luận; bởi vì, theo Người, đó là sự tổng kết những kinh
nghiệm của loài người trên tất cả mọi lĩnh vực. Người cho rằng: “Lý luận là
sự tổng kết những kinh nghiệm của loài người, là tổng hợp những tri thức về tự
nhiên và xã hội tích trữ lại trong quá trình lịch sử”(7). Do đó, nếu
kế thừa được những kinh nghiệm đã được tổng kết thành lý luận, mỗi cá nhân sẽ
có điều kiện nâng cao năng lực của bản thân để phát triển tốt hơn.
Phương pháp tư duy của Chủ tịch Hồ Chí Minh
còn được thể hiện ở việc xem trọng nhân tố tự giác. Người cho
rằng, nền đạo đức mới chỉ có thể được xây dựng trên cơ sở tự giác tu dưỡng đạo
đức của mỗi cá nhân trong xã hội. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong mỗi con
người đều có hai mặt đối lập: Thiện và ác, hay và dở, tốt và xấu,... Do vậy,
điều quan trọng là, mỗi người phải dám nhìn thẳng vào bản thân mình, tự giác tu
dưỡng, rèn luyện, phát huy những cái thiện, cái hay, cái tốt, đồng thời khắc
phục cái ác, cái dở, cái xấu. Trong lần nói chuyện với thanh niên sinh viên tại
Đại hội sinh viên Việt Nam lần thứ II năm 1958, Người nhấn mạnh: “Thanh niên
bây giờ là một thế hệ vẻ vang, vì vậy cho nên phải tự giác tự nguyện mà tự động
cải tạo tư tưởng của mình để xứng đáng với nhiệm vụ của mình. Tức là thanh niên
phải có đức, có tài”(8).
Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tham quan
trưng bày Cuộc thi “Học sinh, sinh viên với ý tưởng khởi nghiệp” (SV_STARTUP).
(Ảnh: TTXVN)
Thường xuyên tổng kết kinh nghiệm và chủ động
nắm lấy những tri thức mới.
Quá trình tìm đường cứu nước của Chủ tịch Hồ
Chí Minh là quá trình không ngừng học tập, rèn luyện qua thực tiễn cách mạng.
Trong quá trình đó, Người thường xuyên tổng kết kinh nghiệm và luôn có ý thức
tìm tòi, nắm lấy những tri thức mới.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một người rất nhạy cảm
về chính trị. Sau khi gửi Bản yêu sách gồm tám điều của dân tộc Việt Nam tới
Hội nghị Véc-xây (Pháp), Người đã nhận ra “cái bánh vẽ” chính trị mà chủ nghĩa
đế quốc Mỹ đưa ra để gạ gẫm các dân tộc. Người nhấn mạnh “chủ nghĩa Uynxơn” chỉ
là một trò bịp bợm lớn. Chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải
phóng được dân tộc; cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của
chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới(9). Kết luận quan trọng
này là tiền đề tư tưởng quan trọng của chiến lược “dựa vào sức mình là chính”
của Đảng trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là hiện thân, kết tinh
đỉnh cao của tinh thần dân tộc, của chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam,
khi tin tưởng tuyệt đối vào sức mạnh của nhân dân, đoạn tuyệt với quan điểm
“cầu viện” để giải phóng dân tộc. Năm 1920, sau khi đọc Sơ thảo lần thứ
nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I.
Lê-nin, Người đã đứng hẳn về Quốc tế III, về phía V.I. Lê-nin, kiên quyết đấu
tranh chống khuynh hướng cơ hội chủ nghĩa trong nội bộ Đảng Xã hội Pháp, và đã
trở thành một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Đối với Người, mỗi
lần phê phán cái sai lầm là mỗi lần tổng kết và rút ra được kinh nghiệm quý báu
cho bản thân cũng như để hướng dẫn những cộng sự của mình.
Không bằng lòng với những tri thức thu lượm
được ở đất Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bôn ba khắp các châu lục để khám phá,
tìm hiểu, thâu thái thêm những tri thức mới. Người đã chứng kiến cuộc sống khổ
nhục của những người dân mất nước dưới chế độ thuộc địa nửa phong kiến ở Đông
Dương. Người đã phẫn nộ lên án chế độ tự xưng là “văn minh” nhất nhân loại ở
Anh, Pháp, Mỹ. Đặc biệt, Chủ tịch Hồ Chí Minh vui mừng khi thấy cuộc sống mới
trên quê hương Cách mạng Tháng Mười Nga. Đi đến đâu, Người cũng quan sát và suy
nghĩ, chiêm nghiệm để tự rút ra những bài học kinh nghiệm cho bản thân mình.
Bằng sự nghiên cứu nghiêm túc nhất, với tinh thần trách nhiệm cao nhất trước
dân tộc và giai cấp, Người khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc
không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản. Việc thành lập Đảng
Cộng sản Đông Dương là Đảng đã giương cao ngọn cờ cách mạng dân tộc dân chủ lại
càng chứng tỏ rõ rệt vai trò của giai cấp vô sản và đảng của nó trong phong
trào giải phóng dân tộc”(10).
GIÁ TRỊ VẬN DỤNG TRONG QUÁ TRÌNH TĂNG CƯỜNG
HỌC TẬP VÀ NÂNG CAO NĂNG LỰC TƯ DUY CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN HIỆN NAY
Qua hơn 35 năm đổi mới, Việt Nam đã gặt hái
được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên tất cả các lĩnh vực, chính
trị luôn ổn định, an ninh quốc phòng được giữ vững. Vị thế của Việt Nam trên trường
quốc tế không ngừng được nâng cao, đời sống của các tầng lớp nhân dân được cải
thiện đáng kể. Theo đó, tư duy của đội ngũ cán bộ, đảng viên đã có những đổi
mới nhất định (về trình độ cũng như phương pháp tư duy). Tuy nhiên, sự phát
triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong điều kiện thế giới có
nhiều thay đổi khó lường, đặc biệt là sự phát triển không ngừng của công nghệ
thông tin và trí tuệ nhân tạo, còn gặp nhiều khó khăn, thách thức. Trong khi
đó, trình độ hiểu biết về lý luận, thực tiễn của nhiều cán bộ, đảng viên hiện
nay còn nhiều hạn chế. Phong cách tư duy của một bộ phận cán bộ, đảng viên vẫn
còn biểu hiện của lối tư duy giáo điều, bảo thủ, trì trệ, khuôn sáo, máy móc.
Đó là những suy nghĩ chủ quan, duy ý chí, chưa thật sự dựa trên cơ sở khoa học
và thực tiễn. Lối tư duy nôn nóng, giản đơn, đại khái, yếu về logic, thiếu hệ
thống, luôn chạy theo mong muốn chủ quan của cá nhân vẫn còn tồn tại; đặc biệt,
một số cán bộ, đảng viên có những biểu hiện của sự tách rời giữa tình cảm, đạo
đức cách mạng và lý trí khoa học.
Do đó, yêu cầu bức thiết đặt ra hiện nay là
phải xây dựng phương pháp tư duy khoa học cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, cụ thể
như sau:
Một là, chú trọng nâng cao tư duy độc lập, tự chủ,
sáng tạo cho đội ngũ cán bộ, đảng viên. Sau khi thấm nhuần phương pháp tư duy
Hồ Chí Minh, đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng phải có khả năng dám nghĩ, dám
làm, dám đột phá, không lệ thuộc, rập khuôn, bắt chước người khác; có năng lực
và bản lĩnh bảo vệ được quan điểm, chính kiến của mình; tự mình làm chủ mọi suy
nghĩ, hành động, không bị a dua theo người khác; tự giác tìm tòi để sáng tạo,
sẵn sàng tiếp thu cái mới, từ bỏ cái đã lỗi thời. Từ đó, đội ngũ cán bộ, đảng
viên sẽ nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả thực hiện nhiệm vụ chính trị.
Hai là, khắc phục những thành kiến trong tư duy của
đội ngũ cán bộ, đảng viên. Thực chất vấn đề này là, chống chủ nghĩa giáo điều -
giáo điều sách vở, giáo điều trong việc học tập kinh nghiệm của người khác; qua
đó, giúp họ vượt lên trên những thành kiến, không lệ thuộc vào tập quán cũ, lạc
hậu, biết giữ gìn và phát triển những tư tưởng truyền thống còn phù hợp, tiếp
thu một cách có chọn lọc những tư tưởng mới, chủ động đề xuất những sáng kiến,
sáng tạo trong thực hiện nhiệm vụ được giao.
Ba là, nâng cao nhận thức, giáo dục, giúp cán bộ,
đảng viên biết kết hợp giữa lý trí với tình cảm trong sáng, làm điều gì cũng
luôn đặt lợi ích của tập thể, lợi ích quốc gia, dân tộc lên trên hết, trước
hết. Biết yêu thương con người, luôn sẵn sàng giúp đỡ, hỗ trợ người khác, coi
niềm vui, hạnh phúc của người khác cũng là niềm vui và hạnh phúc của mình. Lịch
sử đã chứng minh rằng, những cá nhân nặng về lý trí mà thiếu tình cảm thì sớm
hay muộn họ cũng sẽ rời bỏ con đường mà mình đã chọn. Không ít người vì thiếu
một tình yêu trong sáng và mãnh liệt, không biết yêu thương, nghĩ đến người
khác nên họ đã bị những cám dỗ ích kỷ, tầm thường trong cuộc sống cá nhân, dễ
dẫn đến thoái hóa, biến chất, hư hỏng, trở thành những kẻ cơ hội, hại nước, hại
dân, đi ngược lại lợi ích của nhân dân, của dân tộc.
Bốn là, trang bị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên
phương pháp tư duy thúc đẩy tính tự giác cao, phát huy tối đa năng lực chủ quan
và coi trọng điều kiện khách quan, có khả năng kết hợp hài hòa giữa lý luận và
thực tiễn, góp phần bổ sung phát triển lý luận trên cơ sở hoạt động thực tiễn
và phù hợp với điều kiện thực tiễn để hoàn thành tốt mọi công việc được giao.
Khi nắm vững phương pháp tư duy Hồ Chí Minh, mỗi cán bộ, đảng viên sẽ luôn có
tính tự giác cao và biết vận dụng, thường chủ động xây dựng các kế hoạch, đề ra
biện pháp cụ thể để triển khai công việc của mình một cách khoa học, hiệu quả.
Năm là, tăng cường tổng kết, đúc kết những kinh
nghiệm hay, cách làm sáng tạo; phát hiện những gương điển hình tiên tiến để
giáo dục, nêu gương cho đảng viên và quần chúng noi theo; xem xét kinh nghiệm,
cách làm hay của cán bộ, đảng viên và cá nhân khác để áp dụng cho phù hợp với
bản thân mình. Bên cạnh đó, phương pháp tư duy Hồ Chí Minh cũng giúp cho đội
ngũ cán bộ, đảng viên có khả năng tìm tòi, suy nghĩ, chủ động tiếp thu tri thức
mới để bổ sung vào kinh nghiệm đã tích lũy, từ đó có phương pháp phù hợp để
thực hiện tốt các mục tiêu đề ra.
Hiện nay, đứng trước những nhiệm vụ cách mạng
mới, để giải quyết những vấn đề phong phú, sinh động, phức tạp mà cuộc sống đặt
ra, không có con đường nào khác ngoài con đường nâng cao phương pháp tư duy,
nhất là tư duy lý luận. Trong đó, phương pháp tư duy Hồ Chí Minh là một mẫu
mực, vẫn còn giữ nguyên giá trị và lợi ích thiết thực. Do vậy, việc nghiên cứu,
học tập, vận dụng phương pháp tư duy Hồ Chí Minh để nâng cao năng lực tư duy
của đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay là một yêu cầu bức thiết, cần được triển
khai một cách toàn diện, sâu sắc và có hệ thống./.
TS. Nguyễn Duy Quỳnh
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn,
Đại học Quốc gia Hà Nội
_______________________
(1) (2) (4) (9) Hồ Chí Minh: Toàn tập,
Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2011, t.1, tr.35, 47, 209, 441.
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd,
t.15, tr.668.
(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd,
t.3, tr.1.
(6) (10) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd,
t.12, tr.31-32, 30.
(7) (8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd,
t.11, tr.96, 399.
(Nguồn: TC Cộng sản)