Ngay sau Ngày độc lập, ngoài ba thứ “giặc”
cần chống là giặc “đói”, giặc “dốt” và giặc “ngoại xâm”, có một loại “giặc” nữa
cần kể đến là những tiêu cực ngay trong bộ máy của chế độ mới. Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã phát hiện và kiên quyết chống lại những tiêu cực này ngay từ những tuần
lễ đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa.
Chủ tịch Hồ Chí Minh làm việc tại căn cứ Việt
Bắc. (Ảnh tư liệu)
Một tháng rưỡi sau ngày đọc Tuyên
ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã gửi một bức thư đầy tâm huyết tới Ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện
và làng (đăng báo Cứu quốc, số 69, ngày 17/10/1945). Bức thư ngắn nhưng Người
gửi gắm vào đó nhiều điều.
Trong Thư gửi Ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh,
huyện và làng(1), Bác bày tỏ sự quan tâm về mối quan hệ giữa Chính phủ và người
dân. Ðây là mối quan hệ gắn kết khăng khít: “Nếu không có nhân dân thì Chính
phủ không đủ lực lượng. Nếu không có Chính phủ, thì nhân dân không ai dẫn
đường”. Trong thời Trần vẻ vang oanh liệt nhưng Trần Quốc Tuấn nhìn ra được gốc
rễ vấn đề mà bảo: Vua tôi đồng lòng, anh em hòa thuận, cả nước gắng sức, khoan
thư sức dân để làm kế rễ sâu bền gốc - đó là thượng sách giữ nước. Nguyễn Trãi
thì cho rằng, chở thuyền và lật thuyền đều do dân. Trong thư này, Bác viết:
“nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có
nghĩa lý gì”. Với Chính phủ, Bác viết: “các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc
cho đến các làng, đều là công bộc của dân... Việc gì lợi cho dân, ta phải hết
sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh”. Ðó là Chính phủ “công
bộc”, Chính phủ phục vụ.
Bác đã thấy từ rất sớm những tiêu cực. Bác
nêu lên tiêu cực của một số cán bộ, chỉ ra rằng những người đó “phạm những lầm
lỗi rất nặng nề”. Người kể ra sáu lầm lỗi chính: 1. Trái phép; 2. Cậy thế; 3.
Hủ hóa; 4. Tư túng; 5. Chia rẽ; 6. Kiêu ngạo.
Trái phép là cứ bắt bớ và tịch thu vì tư thù tư
oán. Cậy thế là cậy mình là người trong bộ máy rồi ngang tàng
phóng túng, muốn sao được vậy, coi khinh dư luận, không nghĩ tới dân. Hủ
hóa là ở chỗ, ngày càng xa xỉ trong ăn uống tiêu pha, sử dụng của công
dùng vào việc tư, quên cả thanh liêm, đạo đức. Tư túng là bởi
vì việc công chứ không phải việc riêng mà kéo bè kéo cánh trong công tác cán
bộ. Chia rẽ là bởi không đoàn kết để chống kẻ thù chung mà lại
bênh lớp này chống lớp kia. Kiêu ngạo là bởi vì coi mình là
thần thánh, lúc nào cũng “vác mặt quan cách mạng” lên, vừa mất lòng tin đối với
dân, vừa không giữ được uy tín cho chính phủ. Muốn làm tròn trách nhiệm, bổn
phận “công bộc” của dân như Bác Hồ căn dặn, mỗi cán bộ phải có quan điểm phục
vụ vì dân, tác phong công tác gần gũi với tinh thần tôn trọng nhân dân. Và
“Chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta”. Cán bộ muốn lãnh
đạo phải gần dân, lắng nghe và thấu hiểu lòng dân để đề ra chủ trương, chính
sách phù hợp.
Bức thư chứa đựng những lời tâm huyết của
Bác: “Chúng ta không sợ sai lầm, nhưng đã nhận biết sai lầm thì phải ra sức sửa
chữa. Vậy nên, ai không phạm những lầm lỗi trên này, thì nên chú ý tránh đi, và
gắng sức cho thêm tiến bộ. Ai đã phạm những lầm lỗi trên này, thì phải hết sức
sửa chữa; nếu không tự sửa chữa thì Chính phủ sẽ không khoan dung”.
Kết thúc Thư gửi Ủy ban nhân dân các kỳ,
tỉnh, huyện và làng, Bác viết: “Vì hạnh phúc của dân tộc, vì lợi ích của nước
nhà, mà tôi phải nói. Chúng ta phải ghi sâu những chữ “công bình, chính trực”
vào lòng”.
Ngay từ những ngày đầu của chính thể Việt Nam
Dân chủ cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kiên quyết đấu tranh chống lại những
tiêu cực dễ mắc trong bộ máy nhà nước - càng dễ mắc hơn khi cán bộ và nhân dân
ta mới giành được chính quyền, hoàn toàn chưa có kinh nghiệm quản lý nhà nước.
Ðó là bệnh quan liêu, tham ô, lãng phí, tệ “quan cách mạng” nhũng nhiễu nhân
dân ở các địa phương.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gọi tham ô, lãng phí,
quan liêu là “giặc nội xâm”, thứ giặc ở trong lòng, nguy hiểm hơn giặc ngoại
xâm. Lòng tin quý hơn vàng. Mất lòng tin là mất tất cả. Xây dựng lòng tin, xây
dựng thế trận lòng dân trước hết bắt đầu từ bản thân Ðảng, từ những cán bộ,
đảng viên, những người trong hệ thống chính trị. Ðảng, cán bộ, đảng viên phải
“sẵn sàng, vui vẻ” làm “đày tớ”, làm “công bộc” cho dân.
Ngay từ khi bắt đầu xây dựng Nhà nước Việt
Nam Dân chủ cộng hòa non trẻ, với tư cách người đứng đầu Chính phủ của nhân
dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh tới việc phải đấu tranh loại trừ tệ mất
dân chủ, độc đoán chuyên quyền, đặc quyền đặc lợi của những ông “quan cách
mạng”.
Trước đó, ngày 17/9/1945, Người đã có Thư gửi
các đồng chí tỉnh nhà (Nghệ An) với tư cách một người đi trước tâm sự với những
người đi sau cùng chí hướng: “Công việc phá hoại xong rồi. Nay bước đầu công
việc dọn dẹp, sắp đặt, giữ gìn, kiến thiết. À! Việc này mới khó chứ!”(2), trước
khi chỉ ra những khuyết điểm cần tránh. Sau này, Người còn nhiều lần nhắc lại
chủ đề đó trong các cuộc họp, trên mặt báo và tiến hành cuộc đấu tranh đó trong
thực tiễn. Tháng 10/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh trả lời trước kỳ họp thứ hai Quốc
hội khóa I: “Chính phủ đã hết sức làm gương và nếu làm gương không xong, thì sẽ
dùng pháp luật mà trị những kẻ ăn hối lộ-đã trị, đương trị và sẽ trị cho kỳ
hết”(3).
Ðọc lại Thư gửi Ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh,
huyện và làng vào thời điểm này, vẫn nguyên tính thời sự. Là bởi, những tiêu
cực như trong bức thư của Bác nêu năm 1945 vẫn còn nhiều. Vẫn có một số người
“vác mặt quan cách mạng” đi ức hiếp dân lành.
Văn kiện Ðại hội XIII đánh giá: “vẫn còn tình
trạng nói không đi đôi với làm; không tuân thủ nguyên tắc của Ðảng; quan liêu,
tham nhũng, lãng phí, cá nhân chủ nghĩa, cơ hội, thực dụng, bè phái, gây mất
đoàn kết nội bộ; chưa nêu cao ý thức trách nhiệm trước tổ chức, cơ quan, đơn
vị, địa phương và nhân dân. Thực hiện quy định về trách nhiệm nêu gương của cán
bộ, đảng viên chưa trở thành nền nếp, hiệu quả chưa cao”(4). Phải làm sao để
những “công bộc” từ bỏ đặc quyền đặc lợi, phục vụ nhân dân, cống hiến cho cách
mạng thật tận lực, góp phần cho đất nước hùng cường.
Trong những năm tới, Ðảng quyết tâm “Ðẩy mạnh
giáo dục đạo đức cách mạng, làm cho mỗi cán bộ, đảng viên thấy rõ bổn phận và
trách nhiệm của mình, luôn vững vàng trước mọi khó khăn, thách thức và không bị
cám dỗ bởi vật chất, tiền tài, danh vọng; đấu tranh có hiệu quả với mọi biểu
hiện của chủ nghĩa cá nhân, bệnh quan liêu, cơ hội, cục bộ, bè phái, mất đoàn
kết nội bộ. Nâng cao ý thức tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng suốt đời,
thường xuyên “tự soi”, “tự sửa” và nêu cao danh dự, lòng tự trọng của người
đảng viên”(5).
Gần đây nhất, ngày 3/8, tại phiên họp Chính
phủ thường kỳ tháng 7/2022, Thủ tướng Phạm Minh Chính đã nhấn mạnh một trong
“ba tăng cường” khi thực hiện điều hành phát triển kinh tế - xã hội. Ðó là tăng
cường kỷ luật, kỷ cương trong hệ thống hành chính. Ðây là nỗ lực trong thực tiễn
góp phần tăng cường kỷ luật, kỷ cương, xây dựng Ðảng và hệ thống chính trị ngày
càng trong sạch, vững mạnh toàn diện. Ðiều này cũng là công việc hiện thực hóa
tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng chính quyền của dân, do dân, vì dân. Những vấn
đề Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt ra từ rất sớm khi chăm lo nâng cao phẩm chất và
năng lực của đội ngũ cán bộ cũng như cung cách hoạt động của bộ máy chính quyền
mới cho đến nay vẫn mang nhiều giá trị thực tiễn./.
Mạch Quang Thắng (nhandan.vn)
_______________________________
(1) (2) Hồ Chí Minh: Toàn tập,
Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2011, t.4, tr.64-66, 19.
(3) Lịch sử Quốc hội Việt Nam 1946 -
1960, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 1994, tr.98.
(4) (5) Ðảng Cộng sản Việt Nam: Văn
kiện Ðại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự
thật, H, 2021, t.II, tr.178-179, 237.
Nguồn: tuyengiao.vn