Bác Hồ với công nhân xe lửa Gia Lâm (tranh của họa sĩ Phạm
Lung, sáng tác năm 1969. (Ảnh: Tư liệu)
1. Chủ tịch Hồ Chí Minh là người sáng lập, rèn
luyện và lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam, đưa sự nghiệp cách mạng của dân tộc
đến những bến bờ thắng lợi; đồng thời, là một danh nhân văn hóa thế giới, nên
Người luôn hiểu rõ và thực hành các chuẩn mực đạo đức truyền thống dân tộc,
đồng thời kế thừa những tinh hoa đạo đức của nhân loại. Với tầm vóc của một
nhân cách lớn, không phải đến khi Đảng ta trở thành đảng cầm quyền, có vị trí
và vai trò ngày càng vững chắc trong lòng nhân dân, được lịch sử ghi nhận qua
những thắng lợi vĩ đại do Đảng lãnh đạo đối với sự nghiệp cách mạng của dân
tộc; mà ngay từ khi Đảng ta còn ở buổi sơ khai, đến những ngày đầu chính thức
cầm quyền sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã luôn quan tâm, nhắc nhở cán bộ, đảng viên về việc tu dưỡng, rèn luyện đạo
đức suốt đời của người cách mạng.
Khi
Đảng còn chưa ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ đặc điểm của các dân tộc
phương Đông là luôn tôn trọng và đánh giá cao những tấm gương đạo đức trong
sáng, cao cả, hết lòng phụng sự Tổ quốc, đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho
nhân dân. Những bậc vua sáng, tôi hiền trong lịch sử từ xa xưa có công mở mang
bờ cõi, giữ yên sự vững bền của xã tắc, cho đến những bậc tiên hiền, những vị
có công lập làng, giữ xóm… luôn được nhân dân ghi nhận, tôn làm thánh, thờ làm
thành hoàng và truyền tụng từ đời này qua đời khác. Vì thế, ngay từ đầu những
năm 1920, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khái quát đặc điểm này của dân tộc Việt Nam
nói riêng, các dân tộc Á Đông nói chung, để đưa ra chỉ dẫn cần thiết cho mỗi
người cộng sản trong việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng, giữ vững sự
tin yêu của quần chúng nhân dân: Đối với các dân tộc Á Đông, một tấm
gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền.
Năm
1927, qua tác phẩm Đường cách mệnh, Người đã chỉ rõ những yêu
cầu về đạo đức của người cộng sản, về tu dưỡng và rèn luyện đạo đức cách mạng.
Tu dưỡng, rèn luyện theo những chỉ dẫn đó, các lớp đảng viên tiền bối của Đảng
đã cống hiến, hy sinh cả cuộc đời mình để tô thắm thêm đạo đức trong sáng của
người cách mạng, nên đã thuyết phục được nhân dân một lòng một dạ tin vào Đảng,
đi theo Đảng. Cũng vì thế, mặc dù chỉ có chưa tới năm nghìn đảng viên, Đảng ta
đã lãnh đạo thành công Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đem lại độc lập cho dân
tộc sau hơn 80 năm dưới ách thực dân xâm lược, lập nên nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa.
Trong
công cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do cho đất nước, các cán bộ, đảng viên
của Đảng đã không quản ngại khó khăn, gian khổ, hy sinh, tỏ rõ sự xứng đáng với
danh hiệu đảng viên cộng sản cao quý. Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành
đảng cầm quyền, thì những đảng viên của Đảng trở thành những cán bộ lãnh đạo
chủ chốt trong hệ thống chính quyền từ Trung ương đến cơ sở công tác trong hoàn
cảnh, điều kiện mới, khi kẻ thù trước mặt không chỉ là quân
thù và hy sinh, mất mát là mạng sống cá nhân, mà còn phải đối
diện với những “viên đạn bọc đường”, luôn làm xao động ý chí phấn đấu, tu
dưỡng, rèn luyện của họ để mưu cầu lợi ích cá nhân.
Nhận
thấy rõ điều đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở đội ngũ cán bộ, đảng viên
về nghĩa vụ của họ trước quốc dân, đồng bào và chỉ rõ: Đảng không phải là tổ
chức để làm quan, phát tài, mà là để phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, cống
hiến cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc; vì thế, đảng viên phải luôn rèn
luyện, phấn đấu, luôn sẵn sàng hy sinh, cống hiến cho sự nghiệp cách mạng.
Những lời căn dặn, nhắc nhở của Người giúp đội ngũ cán bộ, đảng viên nhận thức
rõ trách nhiệm, nghĩa vụ của mình trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc, thấy
rõ những tiêu chí cần phải kiên trì tu dưỡng, rèn luyện, nỗ lực phấn đấu để
xứng đáng với sự mong đợi, kỳ vọng của quần chúng nhân dân, với nhiệm vụ do
Đảng giao phó, xứng với danh hiệu đảng viên cộng sản.
Những
yêu cầu đó đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ trong nhiều bài nói, bài viết
ngay từ khi Đảng ta trở thành đảng cầm quyền sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945,
gửi đội ngũ cán bộ, đảng viên và bộ máy chính quyền các cấp, ở các vùng, miền
và thể hiện tập trung hơn cả chính là ở tác phẩm Sửa đổi lối làm việc,
năm 1947. Đây có thể xem như một bộ tổng tập đầu tiên về những tiêu chuẩn của
người cán bộ cách mạng, người đảng viên cộng sản, về yêu cầu và chỉ dẫn đối với
hoạt động của chính quyền cách mạng, là sự cảnh báo về những thói hư, tật xấu
mà người cán bộ, đảng viên hay mắc phải, để từ đó đề ra biện pháp phòng, chống
những thói hư, tật xấu đó. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, Đảng ta cầm
quyền trên một nửa lãnh thổ trong điều kiện phải chống chiến tranh phá hoại của
đế quốc Mỹ với miền Bắc và chi viện cho phong trào cách mạng miền Nam đấu tranh
giải phóng đất nước. Khi đó, những thói hư, tật xấu trong một bộ phận cán bộ,
đảng viên xuất hiện, gây ảnh hưởng xấu tới uy tín, sự vững mạnh, hiệu quả lãnh
đạo sự nghiệp cách mạng của Đảng. Nhận thức rõ nguy cơ này, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã viết nhiều tác phẩm về việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của đội ngũ cán
bộ, đảng viên, đó là tác phẩm Đạo đức cách mạng, viết năm 1955; tác
phẩm Đạo đức cách mạng, viết năm 1958, đặc biệt là tác phẩm Nâng
cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân viết năm 1969.
2. Tác phẩm Nâng cao đạo đức cách mạng, quét
sạch chủ nghĩa cá nhân được Chủ tịch Hồ Chí Minh mở đầu bằng việc nêu
bật những thành tích của Đảng trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Có được
những thành tích đó là nhờ đông đảo đảng viên luôn kiên trì phấn đấu theo lý
tưởng của Đảng, trở thành những người đi trước mở đường, dẫn dắt quần chúng
nhân dân chinh phục những cột mốc trên con đường đấu tranh vì độc lập, tự do,
hạnh phúc của dân tộc. Tuy nhiên, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ, vẫn “còn có một
số ít cán bộ, đảng viên mà đạo đức, phẩm chất còn thấp kém”(1), họ
chính là những người “mang nặng chủ nghĩa cá nhân, việc gì cũng
nghĩ đến lợi ích riêng của mình trước hết”(2). Vì sa vào chủ nghĩa
cá nhân, nên họ “tham ô, hủ hóa, lãng phí, xa hoa… coi thường tập thể, xem khinh
quần chúng, độc đoán, chuyên quyền”(3), họ cũng “mất đoàn kết, thiếu
tính tổ chức, tính kỷ luật, kém tinh thần trách nhiệm, không chấp hành đúng
đường lối, chính sách của Đảng và của Nhà nước, làm hại đến lợi ích của cách
mạng, của nhân dân”(4).
Để
ngăn chặn và đẩy lùi căn bệnh cá nhân chủ nghĩa, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ:
“Đảng ta phải ra sức tăng cường giáo dục toàn Đảng về lý tưởng cộng sản chủ
nghĩa, về đường lối, chính sách của Đảng, về nhiệm vụ và đạo đức của người đảng
viên. Phải thực hành phê bình và tự phê bình nghiêm chỉnh trong Đảng. Phải hoan
nghênh và khuyến khích quần chúng thật thà phê bình cán bộ, đảng viên. Chế độ
sinh hoạt của chi bộ phải nghiêm túc. Kỷ luật của Đảng phải nghiêm minh. Công
tác kiểm tra của Đảng phải chặt chẽ”(5). Về phía mỗi đảng viên,
Người yêu cầu phải “đặt lợi ích của cách mạng, của Đảng, của nhân dân lên trên
hết, trước hết. Phải kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao
đạo đức cách mạng, bồi dưỡng tư tưởng tập thể, tinh thần đoàn kết, tính tổ
chức và tính kỷ luật. Phải đi sâu đi sát thực tế, gần gũi quần chúng, thật sự
tôn trọng và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân. Phải cố gắng học tập,
rèn luyện, nâng cao trình độ hiểu biết để làm tốt mọi nhiệm vụ”(6).
Trong
tác phẩm Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa
cá nhân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ nguyên nhân chủ quan và khách quan
của chủ nghĩa cá nhân. Nguyên nhân chủ quan, là do những cá nhân
này thiếu tu dưỡng, rèn luyện nên “phẩm chất, đạo đức còn thấp kém”. Nguyên
nhân khách quan, có nguyên nhân từ thực tế xã hội khi những tồn dư do xã
hội cũ để lại từ lối mòn suy nghĩ, đã tác động không tốt tới nhận thức chính
trị của một số đảng viên, khiến cho họ tuy là đảng viên nhưng chưa thực sự xứng
đáng với tư cách đảng viên cộng sản. Bên cạnh đó, một số cấp ủy, tổ
chức đảng chưa nghiêm túc trong thực hiện việc theo dõi, bồi dưỡng, đánh giá
trước khi kết nạp quần chúng vào Đảng; sau khi kết nạp đảng, không nghiêm túc
thực hiện các nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt đảng, như tự phê bình và phê bình, tập
trung dân chủ… trong thực hiện nhiệm vụ chính trị cũng như trong sinh hoạt hằng
ngày. Những hạn chế đó khiến cho một số cán bộ, đảng viên thiếu sự rèn luyện,
tu dưỡng, ít được kiểm tra, giúp đỡ trong công việc và sinh hoạt hằng ngày, nên
đã làm cho căn bệnh cá nhân chủ nghĩa phát sinh và ngày càng trầm trọng.
Để
ngăn ngừa và đẩy lùi chủ nghĩa cá nhân trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, Chủ
tịch Hồ Chí Minh chỉ ra những biện pháp căn bản. Thứ nhất, mỗi cán
bộ, đảng viên phải kiên trì, quyết tâm tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng,
phải “đặt lợi ích của cách mạng, của Đảng, của nhân dân lên trên hết, trước
hết”, “phải cố gắng học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ hiểu biết để làm tốt
mọi nhiệm vụ”. Thứ hai, tổ chức đảng các cấp phải tăng cường việc
giáo dục đội ngũ cán bộ, đảng viên về các tiêu chí của người cộng sản; trong
đó, cần chú ý “về lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, về đường lối, chính sách của
Đảng, về nhiệm vụ và đạo đức của người đảng viên”. Thứ ba, thực
hiện nghiêm các biện pháp xây dựng Đảng về tổ chức, như “Phải thực hành phê
bình và tự phê bình nghiêm chỉnh trong Đảng… Chế độ sinh hoạt của chi bộ phải
nghiêm túc. Kỷ luật của Đảng phải nghiêm minh. Công tác kiểm tra của Đảng phải
chặt chẽ”. Thứ tư, phát huy vai trò của quần chúng nhân dân tham
gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng, theo đó tổ chức đảng các cấp “Phải hoan nghênh và
khuyến khích quần chúng thật thà phê bình cán bộ, đảng viên”.
Những
chỉ dẫn đó của Chủ tịch Hồ Chí Minh đến nay vẫn còn nguyên giá trị, vẫn luôn là
kim chỉ nam cho mỗi cấp ủy, tổ chức đảng cũng như mỗi đảng viên trong thực hiện
nhiệm vụ chính trị, tiến hành công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, cũng như trong
việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức người cộng sản một cách hiệu quả.
3. Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh, đặc biệt là những
chỉ dẫn quan trọng của Người về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, để Đảng xứng đáng với
sự tin yêu của nhân dân, thời gian tới, việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng cần tiếp
tục quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh để thực hiện có hiệu quả những nội dung Đại
hội XIII của Đảng đề ra.
Một
là, làm tốt việc giáo dục lý tưởng
cách mạng, quan điểm, đường lối của Đảng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên của toàn
hệ thống chính trị và lan tỏa trong nhân dân, để quan điểm, đường lối chính trị
khoa học, cách mạng trở thành dòng chủ lưu chính chi phối suy nghĩ, hành động
của toàn thể đội ngũ cán bộ, đảng viên và đông đảo nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã chỉ rõ: Đảng muốn vững phải có chủ nghĩa làm cốt; chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Cương lĩnh chính trị, chủ trương, đường lối
của Đảng là định hướng quan trọng để thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị của cả hệ
thống chính trị, góp phần bảo đảm kết quả thực hiện nhiệm vụ dưới sự lãnh đạo
của Đảng đạt yêu cầu, mục đích đề ra.
Giáo dục lý tưởng cách mạng, quan điểm, đường lối của Đảng
cho đoàn viên, thanh niên (Trong ảnh: Đoàn viên, thanh niên thành phố Từ
Sơn, tỉnh Bắc Ninh tham quan Khu lưu niệm Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ tại phường
Phù Khê, thành phố Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh). (Ảnh: TTXVN)
Thời
gian qua, bên cạnh những thành quả đã đạt được, vẫn còn tình trạng “việc cụ thể
hóa, tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng của một số
cấp ủy, tổ chức đảng chưa kịp thời… Một bộ phận cán bộ, đảng viên bản lĩnh
chính trị không vững vàng, suy thoái về tư tưởng chính trị, còn hoài nghi, mơ hồ
về mục tiêu, lý tưởng của Đảng và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta”(7).
Để khắc phục những hạn chế này, thời gian tới, các cấp ủy, tổ chức đảng, các
cấp, các ngành phải: “Kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
không ngừng vận dụng và phát triển sáng tạo phù hợp với thực tiễn Việt Nam”,
“Công tác tư tưởng phải… làm cho tư tưởng tiến bộ, tích cực thấm sâu vào toàn
bộ đời sống xã hội”(8).
Hai
là, làm tốt công tác phát triển đảng
viên. Trong thời gian qua, việc “Kết nạp đảng viên một số nơi còn chạy theo số
lượng, chưa coi trọng đúng mức chất lượng… Công tác quản lý, giáo dục, rèn
luyện đảng viên chưa được quan tâm đúng mức, việc rà soát, sàng lọc đảng viên
chưa thường xuyên, thiếu cương quyết”(9).
Để
khắc phục những hạn chế đó, đồng thời nâng cao chất lượng đảng viên, thời gian
tới, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp cần tập trung thực hiện các nhiệm vụ, giải
pháp mà Đại hội XIII của Đảng đã đề ra là: “Nâng cao chất lượng kết nạp đảng
viên, chú trọng phát hiện, bồi dưỡng kết nạp vào Đảng những đoàn viên ưu tú,
trưởng thành trong lao động, học tập, trong lực lượng vũ trang; quan tâm phát
triển đảng viên là công nhân, trí thức, doanh nhân để tạo nguồn cán bộ cho hệ
thống chính trị các cấp”(10). Bên cạnh đó, thực hiện nghiêm
túc Chỉ thị số 28-CT/TW ngày 21/1/2019 của
Ban Bí thư về nâng cao chất lượng kết nạp đảng viên và rà soát,
sàng lọc, đưa những đảng viên không còn đủ tư cách ra khỏi Đảng; Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 16/6/2022
Hội nghị Trung ương 5 khóa XIII về tăng cường củng cố xây dựng tổ chức
cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên trong giai đoạn mới.
Cần làm tốt công tác lựa chọn, bồi dưỡng các quần chúng ưu tú và việc rèn
luyện, thử thách cán bộ, đảng viên trong thực tiễn cách mạng. Cần tuân thủ
nghiêm chỉ dẫn của V.I.Lênin trong phát triển đảng viên là “thà ít mà tốt”.
Đảng vững mạnh không phải ở số lượng đông đảo đảng viên, mà ở sức mạnh to lớn,
đầy thuyết phục do những thành viên xứng đáng với danh hiệu người đảng viên
cộng sản thể hiện trước quần chúng nhân dân, trong thực tiễn cách mạng của đất
nước dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Ba
là, tổ chức đảng các cấp cần tuân thủ
nghiêm các nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt đảng, như tập trung dân chủ, tự phê
bình và phê bình,… nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả thực hiện nhiệm vụ chính trị
và tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên. Sức mạnh của
Đảng nói chung, của mỗi tổ chức đảng nói riêng là ở sự đồng tâm nhất trí của
tập thể cùng quyết tâm hoàn thành tốt nhiệm vụ; cùng hy sinh, phấn đấu cho lý
tưởng; cùng giúp nhau chiến thắng những kẻ thù ẩn sâu bên trong bản thân mỗi
người - những suy nghĩ mang tính cá nhân ích kỷ, không vì lý tưởng, sự nghiệp
chung…
Thời
gian qua, “Tự phê bình và phê bình ở không ít nơi còn hình thức; tình trạng nể
nang, né tránh, ngại va chạm còn diễn ra ở nhiều nơi; một bộ phận cán bộ, đảng
viên thiếu tự giác nhận khuyết điểm và trách nhiệm của mình đối với nhiệm vụ
được giao”(11). Để khắc phục, đẩy lùi những hạn chế, khuyết điểm nói
trên của đảng viên, tổ chức đảng, thời gian tới cần “Tiếp tục đổi mới, nâng cao
chất lượng sinh hoạt chi bộ; tăng cường kiểm tra, giám sát, kịp thời xử lý các
chi bộ, đảng viên vi phạm quy định, nguyên tắc sinh hoạt đảng… Thực hiện nghiêm
túc, hiệu quả tự phê bình và phê bình, đánh giá, xếp loại chất lượng tổ chức đảng,
đảng viên hằng năm”(12).
Bốn
là, phát huy vai trò của nhân dân
trong tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững
mạnh. Đảng chỉ hoàn thành được sứ mệnh của mình khi luôn hướng mọi hoạt động
của mình vào phục vụ nhân dân; giữ vững sự trong sạch, vững mạnh của Đảng, xứng
đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Thời gian
qua, tổ chức đảng các cấp, bên cạnh những thành tích đạt được trong việc phục
vụ nhân dân, cũng như việc bảo đảm chịu sự giám sát, giúp đỡ của nhân dân, vẫn
còn một số hạn chế cần khắc phục, đó là: “Giám sát của Mặt trận Tổ quốc, các tổ
chức chính trị - xã hội và nhân dân đối với việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức,
lối sống của cán bộ, đảng viên ở một số nơi chưa thường xuyên, hiệu quả thấp”(13).
Vì thế, thời gian tới, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp và đội ngũ cán bộ, đảng
viên cần đặc biệt “Coi trọng công tác kiểm tra, giám sát trong Đảng, kết hợp
với phát huy vai trò giám sát của báo chí và nhân dân đối với việc thực hiện
trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên… Thực hiện có hiệu quả việc giám
sát của các cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và
nhân dân đối với việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng
viên, nhất là người đứng đầu và cán bộ chủ chốt”(14)./.
Hoàng Nguyễn (tapchicongsan.org.vn)
_____________________
(1)
(2) (3) (4) (5) (6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia
Sự thật, H, 2011, t.15, tr.546, 546-547, 547, 547, 547, 547.
(7)
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2021, t.II, tr.168.
(8)
(9) (10) (11) (12) (13) (14) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t.II, tr. 231-232, 190,
241-242, 179, 241, 179, 238.
Nguồn:tuyengiao.vn