Chủ tịch Hồ Chí Minh trong phòng làm việc của
Người ở căn cứ Việt Bắc. Ảnh tư liệu
Tất cả những gì tốt đẹp nhất của dân tộc ta trong hàng nghìn năm
lịch sử đều được kết tinh, hun đúc, sống dậy, tràn đầy sức mạnh hơn bao giờ hết
trong cuộc đời, sự nghiệp, tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh, trong thời đại Hồ Chí
Minh.
Cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh hàm chứa
những giá trị tinh thần cao quý như độc lập, tự do, hạnh phúc, loại bỏ bất
công, bất bình đẳng, hòa bình và công lý, một thế giới mới chống lại đói nghèo,
bệnh tật, dốt nát.
Chủ nghĩa yêu nước,giá trị hàng đầu, nhất
quán, sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ lịch sử Việt Nam xuất hiện từ thời cổ đại,
phát triển qua các giai đoạn lịch sử, đến thời đại Hồ Chí Minh, là một triết lý
xã hội và nhân sinh của người Việt Nam và nếu dùng từ “đạo” với nguyên nghĩa
của nó là “đường”, là hướng đi thì đích thực là đạo Việt Nam”(1). Trải qua các
giai đoạn lịch sử từ cái nôi Văn Lang - Âu Lạc đến thời kỳ nghìn năm Bắc thuộc
chống đô hộ Hán, Đường, qua kháng chiến chống xâm lược thế kỷ X đến thế kỷ
XVIII, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam có cách biểu hiện cao thấp, sắc thái khác
nhau, nhưng ngày càng phát triển cả bề rộng và sâu, đậm đà cốt cách Việt Nam.
Đến giai đoạn lịch sử cận đại, khi triều Nguyễn lên ngôi, giai cấp phong kiến Việt
Nam từng bước từ bỏ ngọn cờ yêu nước, giai cấp tư sản không đủ sức giương cao
ngọn cờ yêu nước, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam được giai cấp công nhân nâng lên
một tầm cao mới.
Được ánh sáng khoa học, cách mạng và nhân văn của chủ nghĩa Lênin
(chủ nghĩa Mác - Lênin) soi sáng, Nguyễn Ái Quốc từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ
nghĩa cộng sản. Từ đó trở đi, Người cùng với Đảng của giai cấp công nhân và dân
tộc Việt Nam - Đảng do Người sáng lập và rèn luyện - phát kiến lại chủ nghĩa
yêu nước truyền thống, đưa vào những nội dung mới, chất lượng mới, trở thành
một bộ phận của tinh thần quốc tế, kết hợp nhuần nhuyễn, phát huy một cách hài
hòa với chủ nghĩa quốc tế vô sản trong toàn bộ tiến trình cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân, tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản.
Chủ tịch Hồ Chí Minh coi chủ nghĩa yêu nước là thứ của quý, động
lực tinh thần lớn nhất cho cách mạng, kháng chiến và xây dựng. Người khẳng
định: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của
ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi,
nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy
hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”(2). Theo Chủ
tịch Hồ Chí Minh, tinh thần yêu nước “có khi được trưng bày trong tủ kính,
trong bình pha lê, rõ ràng, dễ thấy. Nhưng cũng có khi cất giấu kín đáo trong
rương, trong hòm. Bổn phận của chúng ta là làm cho của quý kín đáo ấy đều được
đưa ra trưng bày. Nghĩa là phải ra sức giải thích, tuyên truyền, tổ chức, lãnh
đạo, làm cho tinh thần yêu nước của tất cả mọi người đều được thực hành vào
công việc yêu nước, công việc kháng chiến”(3).
Chủ tịch Hồ Chí Minh phát kiến lại chủ nghĩa yêu nước truyền thống
không phải bằng lý luận, sách vở thuần túy mà chủ yếu thông qua thực tiễn giải
phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Người sử dụng liên tục chủ nghĩa yêu nước
như một vũ khí và rèn luyện vũ khí ấy ngày càng sắc bén trong trường kỳ cách
mạng và kháng chiến. Người chỉ rõ: “Chính do tinh thần yêu nước mà quân đội và
nhân dân ta đã mấy năm trường chịu đựng trăm đắng nghìn cay, kiên quyết đánh
cho tan bọn thực dân cướp nước và bọn Việt gian phản quốc, kiên quyết xây dựng
một nước Việt Nam độc lập, thống nhất, dân chủ, tự do, phú cường, một nước Việt
Nam dân chủ mới”(4).
(Ảnh: T.L)
Sau gần 90 năm (1858-1945), dân tộc ta đánh Pháp, Nhật và chế độ
phong kiến với tinh thần Hồ Chí Minh trong lời hiệu triệu: “Dân ta một cổ hai
tròng. Đã làm trâu ngựa cho Tây, lại làm nô lệ cho Nhật. Trước tình cảnh đau
đớn, xót xa ấy, ta có chịu khoanh tay chờ chết không? Không, quyết không! Hơn
20 triệu con Lạc cháu Hồng quyết không chịu làm vong quốc nô lệ mãi!... Hỡi
đồng bào yêu quý! Việc cứu quốc là việc chung. Ai là người Việt Nam đều phải kề
vai gánh vác một phần trách nhiệm”(5). Cuối cùng, chúng ta đã thắng. Chủ tịch
Hồ Chí Minh khẳng định: “Dân tộc ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100
năm nay để gây nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ
mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ dân chủ cộng hòa… Một dân tộc đã gan góc
chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe
Đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó
phải được độc lập!(6).
Khi thực dân Pháp trở lại cướp nước ta một lần nữa, lời hịch của
ông cha ta tự ngàn xưa vang vọng trong lời hiệu triệu của Chủ tịch Hồ Chí Minh:
“Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định
không chịu làm nô lệ… Chúng ta phải đứng lên… Hễ là người Việt Nam thì phải đứng
lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng
gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy, gộc. Ai cũng phải ra sức chống
thực dân Pháp cứu nước”(7). Sau chín năm “khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt,
máu trộn bùn non, gan không núng, chí không mòn, đem thân làm giá súng”, chúng
ta đã viết nên thiên sử vàng Điện Biên, lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu.
Hơn hai mươi năm tiếp theo, khi đế quốc Mỹ mở rộng cuộc chiến
tranh xâm lược ở cả miền Nam và miền Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh tỏ rõ hào khí
Việt Nam, khảng khái tuyên bố rằng đế quốc Mỹ có thể đưa 50 vạn quân, 1 triệu
quân hoặc nhiều hơn nữa để đẩy mạnh chiến tranh xâm lược ở miền Nam Việt Nam.
Chúng có thể dùng hàng nghìn máy bay tăng cường đánh phá miền Bắc. Nhưng chúng
quyết không thể lay chuyển được chí khí sắt đá, quyết tâm chống Mỹ, cứu nước
của nhân dân Việt Nam anh hùng. “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20
năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể
bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn
độc lập, tự do”(8). “Cuộc kháng chiến chống Mỹ có thể còn kéo dài. Đồng bào
ta có thể phải hy sinh nhiều của, nhiều người. Dù sao chúng ta phải quyết tâm
đánh giặc Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn… Dù khó khăn gian khổ đến mấy, nhân dân ta
nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi. Đế quốc Mỹ nhất định phải cút khỏi nước ta.
Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Đồng bào Nam Bắc nhất định sẽ sum họp một
nhà”(9). Cuối cùng, Mỹ phải cút, ngụy phải nhào, Tổ quốc thống nhất, giang sơn
thu về một mối. Chúng ta “có vinh dự lớn là một nước nhỏ mà đã anh dũng đánh
thắng hai đế quốc to - là Pháp và Mỹ; và đã góp phần xứng đáng vào phong trào
giải phóng dân tộc”(10).
Nhiều dân tộc trên thế giới bị xâm lược và đứng lên chống xâm
lược, không riêng Việt Nam, nhưng như Việt Nam thì không nhiều. Nhiều người
nước ngoài không hiểu nổi sức mạnh của dân tộc Việt Nam là gì? Vì sao dân tộc
Việt Nam thời trung đại, không những không bị Hán hóa, mà còn giành được độc
lập dân tộc? Ba lần đánh bại quân Mông, Nguyên, những kẻ luôn luôn chiến thắng
từ Á sang Âu? Từ một nước nông nghiệp, khoa học kỹ thuật kém phát triển, đã
vùng lên giải phóng, đánh bại các cuộc xâm lược của các đế quốc hùng mạnh là
Pháp và Mỹ? Còn nhiều câu hỏi vẫn phải tiếp tục tìm câu trả lời hoàn toàn
thuyết phục.
Bác Hồ đi Chiến dịch Đông Khê. (Ảnh: T.L)
Việt Nam đất không rộng, người không đông, vũ khí súng đạn không
nhiều, không lớn, luôn phải đối mặt với những cường quốc to lớn hơn mình gấp
nhiều lần. Vậy khí phách của dân tộc Việt Nam là gì? Câu trả lời nằm ở chỗ một
dân tộc biết đặt tâm lý tinh thần độc lập tự cường lên hàng đầu; luôn coi trọng
luân lý biết hy sinh lợi ích cá nhân mình, làm lợi cho quần chúng. Những cuộc
khởi nghĩa và chiến tranh kéo dài hàng nghìn năm đã nhào nặn tâm hồn Việt Nam,
đạo lý và khí phách Việt Nam. Chúng ta tự hào về một dân tộc rắn rỏi, kiên
trung, hiên ngang, có tinh thần độc lập tự chủ, lạc quan, sáng tạo, thương
người, chính nghĩa, đại nghĩa, trước “sóng cả không ngã tay chèo”.
Những giá trị đó có tự ngàn xưa, được vun bồi, kết tinh, sống dậy
trong Hồ Chí Minh, phát sáng hào quang. Chủ tịch Hồ Chí Minh là biểu tượng rực
rỡ của cuộc chiến đấu giành tự do; là mẫu mực xuất chúng về mọi đức tính nhân
đạo, tượng trưng cho tinh thần của dân tộc “đem sức ta mà tự giải phóng cho
ta”(11); “một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp
đỡ thì không xứng đáng được độc lập”(12); “muốn người ta giúp cho, thì trước
mình phải tự giúp mình đã”(13). Để khởi nghĩa thắng lợi, Người khái quát và nâng
cao tinh thần, khí phách của dân tộc: “Dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả
dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”(14).
Cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương tuyệt vời về nhiệt
tình, chí khí cách mạng kiên cường, khí phách anh hùng, tinh thần độc lập tự
do, một lòng kiên trì cuộc đấu tranh cách mạng gian khổ, lâu dài, phức tạp,
nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh
thắng; thắng không kiêu, bại không nản. Chủ tịch Hồ Chí Minh tỏ rõ phẩm chất
của một nhà yêu nước chân chính, một chiến sĩ cách mạng vô sản dũng cảm kiên
cường, triệt để, suốt đời hy sinh phấn đấu với niềm tin và tư thế của một người
chiến thắng. Đó là khí phách và khát vọng của những người được sứ mạng lịch sử
trao cho là đánh đổ xã hội cũ áp bức, bóc lột, bất công, xây dựng xã hội mới
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, lấy dân làm gốc.
Nguyễn Trãi viết: “Lấy đại nghĩa thắng hùng tàn/Dùng chí
nhân thay cường bạo”.
“Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới
Càn khôn bĩ rồi lại thái
Nhật nguyệt tối rồi lại minh
Để mở nền muôn thuở thái bình
Để rửa nỗi nghìn thu sỉ nhục”.
Đó là một khía cạnh đặc trưng thuộc tinh hoa và khí phách của dân
tộc Việt Nam - tinh hoa và khí phách về khát vọng đổi mới, hạnh phúc và phát
triển bền vững, thái bình. Hồ Chí Minh tiếp nối, phát triển, nâng cao khát vọng
đó với tâm nguyện đến ngày thắng lợi sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng
hơn, to đẹp hơn, hơn mười ngày nay. Trong Di chúc, Người viết:
“Điều mong muốn cuối cùng của tôi là: Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu,
xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh,
và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”(15).
Thế giới khẳng định Chủ tịch Hồ Chí Minh là một chiến sĩ cộng sản
theo chủ nghĩa quốc tế, đồng thời tượng trưng cho dân tộc mình, một dân tộc
trải qua hàng nghìn năm lịch sử, từ thời cổ trung đại đến cận hiện đại đã tiến
hành liên tục các cuộc đấu tranh anh hùng để bênh vực những giá trị đạo đức cao
cả, chân chính không chỉ đối với dân tộc Việt Nam mà cả với nhân loại, đó là
quyền sống, độc lập, tự do, hạnh phúc, công lý cho mọi dân tộc và vì mọi người,
bình đẳng giữa các dân tộc, thế giới hòa bình.
Năm 1980, trên cương vị Chủ tịch Hội đồng Hòa bình thế giới, Rômét
Chanđra nhấn mạnh: “Bất cứ nơi nào chiến đấu cho độc lập tự do, ở đó có Hồ Chí
Minh và ngọn cờ Hồ Chí Minh bay cao. Bất cứ ở đâu chiến đấu cho hòa bình và
công lý, ở đó có Hồ Chí Minh và ngọn cờ Hồ Chí Minh bay cao. Ở bất cứ đâu nhân
dân chiến đấu cho một thế giới mới, chống lại đói nghèo, ở đó có Hồ Chí Minh và
ngọn cờ Hồ Chí Minh bay cao”(16).
Chủ tịch Hồ Chí Minh tỏ rõ
phẩm chất của một nhà yêu nước chân chính, một chiến sĩ cách mạng vô sản dũng
cảm kiên cường, triệt để, suốt đời hy sinh phấn đấu với niềm tin và tư thế
của một người chiến thắng. Đó là khí phách và khát vọng của những người được
sứ mạng lịch sử trao cho là đánh đổ xã hội cũ áp bức, bóc lột, bất công, xây
dựng xã hội mới của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, lấy dân làm gốc.
|
Hai mươi năm sau, năm 2000, trên cương vị Chủ tịch danh dự Hội
đồng Hòa bình thế giới, phát biểu trong Hội thảo quốc tế “Việt Nam trong
thế kỷ XX”, Rômét Chanđa có một phát hiện độc đáo khác: “Trong nửa sau thế
kỷ XX, có một từ đã xuất hiện trong tiếng nói của những người bảo vệ và kiến
tạo hòa bình trên thế giới, một từ mà cùng một lúc mang rất nhiều ý
nghĩa: đấu tranh, dũng cảm, anh hùng; và nó còn có ý nghĩa là chiến
thắng, độc lập, tự do. Từ đó là Việt Nam. Và có một cái tên
luôn luôn gắn với từ này - từ chỉ tên của một đất nước. Đó là Hồ Chí
Minh… Người là niềm cảm hứng cho cuộc đấu tranh bất khuất của dân tộc mình,
và cũng là nguồn cảm hứng cho tất cả các dân tộc đang đấu tranh cho những điều
tốt đẹp nhất của nhân loại. Lời nói bất hủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Không
có gì quý hơn độc lập, tự do” đã vang vọng khắp mọi nơi và nó đã được
phụ nữ, nam giới trên khắp các châu lục, những người đang chiến đấu để giành
lấy những mục tiêu thiêng liêng đó, hưởng ứng”(17).
Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc khẳng định
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại một dấu ấn trong quá trình phát triển của nhân
loại, “một biểu tượng xuất sắc về sự tự khẳng định dân tộc, đã cống hiến trọn
đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam, góp phần vào
cuộc đấu tranh chung của các dân tộc vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và
tiến bộ xã hội”(18).
Vĩnh biệt Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta khẳng định: “Người là
tượng trưng cho tinh hoa của dân tộc Việt Nam, cho ý chí kiên cường, bất khuất
của nhân dân Việt Nam suốt bốn nghìn năm lịch sử. “Không có gì quý hơn độc lập
tự do”. “Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất
định không chịu làm nô lệ”. Đó là lời kêu gọi cứu nước khẩn thiết hiện nay của
Tổ quốc, là lời hịch của ông cha ta vang vọng tự ngàn xưa, là nghĩa vụ thiêng
liêng của chúng ta đối với muôn đời con cháu”(19). Người “là linh hồn, là ngọn
cờ chói lọi, lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đoàn kết một lòng,
chiến đấu anh dũng, viết nên những trang sử vẻ vang nhất của Tổ quốc ta”(20).
Đánh giá, ghi nhận của Đảng ta và bè bạn quốc tế là sự khái quát
cao, cô đọng, súc tích về Chủ tịch Hồ Chí Minh, biểu tượng cho tinh hoa và khí
phách của nhân dân Việt Nam anh hùng.
PGS.TS. Bùi Đình Phong
-------
(1) GS. Trần Văn Giàu: Giá trị tinh thần truyền thống của
dân tộc Việt Nam (tái bản có bổ sung và sửa chữa), Nxb. Thành phố Hồ
Chí Minh, 1993, tr.116.
(2) (3) (4) (12) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị
quốc gia, H, 2011, t.7, tr.38, 38 -39, 39, 445.
(13) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.286, 320.
(5) (11) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.229-230,
596.
(6) (7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.3, 534.
(8) (9) (10) (15) (19) (20) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd,
t.15, tr.131, 623, 612, 624, 627, 626.
(14) Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Viện Hồ Chí Minh và
các lãnh tụ của Đảng: Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử, Nxb. Chính trị
quốc gia, H, 2016, t.2, tr.225.
(16) Viện Hồ Chí Minh: Hồ Chí Minh sống mãi trong trái tim
nhân loại, Nxb. Lao động - Nxb. Quân đội nhân dân, H, 1993, tr.90.
(17) Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia - Đại học Quốc
gia Hà Nội: Việt Nam trong thế kỷ XX, Nxb. Chính trị quốc gia, H,
2001, tr.48.
(18) GS.TS. Mạch Quang Thắng - PGS.TS. Bùi Đình Phong - TS. Chu
Đức Tính: UNESCO với sự kiện tôn vinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, anh hùng
giải phóng dân tộc, nhà văn hóa kiệt xuất, Nxb.Chính trị quốc gia, H, 2013,
tr.71.
Nguồn: tuyengiao.vn